vũ công phái Hoàng Sơn đa phần là từ Hải Vân thiền sư, mà vũ công của Hải Vân thiền sư là từ chùa Bảo Lâm ở Lĩnh Nam, nội công thiên về lối dương cương oai thuần mãnh, vốn không thích hợp với nữ lưu, thêm vào đó những thứ vũ công Hải Vân thiền sư để lại đều có liên hệ đến phái Thiếu Lâm, mà vũ công của phái Thiếu Lâm phải cần đến chuyện tinh thông Phật lý mới phát huy được oai lực,do đó mà phái Hoàng Sơn lúc đầu còn chưa nổi lên được, sau này các chưởng môn hấp thu vũ công của các phái khác tự mình sáng chế ra vài thứ vũ công mới, phái Hoàng Sơn mới bắt đầu nổi danh, mãi cho đến thời Hoàng Sơn lão tẩu cơ duyên xảo hợp ăn được linh chi ngàn năm ở núi Hoàng Sơn vũ công tiến triển một bước lớn, lúc đó phái Hoàng Sơn mới nổi bật lên trong chốn giang hồ. Kiếm pháp phái Hoàng Sơn lợi hại nhất là chiêu Mộng Bút Sinh Hoa, Tê Ngưu Vọng Nguyệt, Khổng Tước Hý Liên, Kim Quy Bà Sơn, Hầu Tử Quan Thái Bình, Nam Hải Quan Âm, Tiên Nhân Chỉ Lộ, tất cả đều do lão sáng chế ra, không những thế chiêu nào chiêu nấy đều lấy tên từ các chỗ danh thắng ở núi Hoàng Sơn, còn một đường Thiên Cang Thủ là do lão kết hợp vũ công truyền lại là Ngũ Cầm Cầm Nã Thủ sáng tạo thêm cái mới, Ngũ Cầm là chỉ cọp, báo, sói, gấu và mèo rừng năm thứ động vật, các chưởng môn đời trước dựa vào hành động mấy con thú này lúc đi săn mà sáng chế ra đường Cầm Nã Thủ vô cùng lợi hại, còn Hoàng Sơn lão tẩu lại còn theo quan sát riêng của mình vào các động tác như hầu dược (khỉ nhảy nhót), xà hành (Rắn trường), cẩu khiêu (chó tung mình), ưng kích (chim ưng chụp), kê tường (gà bay) thêm vào những thứ sẵn có sáng chế ra một đường Thiên Cang Thủ chuyên chụp, giữ huyệt đạo của địch thủ, thường thường chỉ một chiêu đã thành công, ngụy dị khôn lường, tinh diệu khôn tả, có thể ngang ngửa với đại cầm nã thủ và tiểu cầm nã thủ của các môn phái lớn trong giang hồ.