Nguồn: Đặc San Cường Để & Nữ Trung Học Qui Nhơn 2010

LTS: Đặc san CĐ - NTH 2010 có nhận được một bài biên khảo rất công phu, rất giá trị của cựu học sinh Cường Để và cũng là một giáo sư quen thuộc của nhiều trường Trung Học tại Bình Định: nhà văn Đào Đức Chương. Bài biên khảo có tên gọi chính thức là "Các Trường Trung Học Tỉnh Bình Định" (tính đến 1 - 4 - 1975) giới thiệu về 49 ngôi trường trong cả tỉnh, chia ra làm hai phần: Phần một, gồm 20 ngôi trường tọa lạc tại thị xã Qui Nhơn và phần hai là 29 ngôi trường rải rác ở khắp các thị trấn, các quận - xã. Toàn bộ tác phẩm dày gần 100 trang nên chúng tôi buộc lòng phải phải chia ra để giới thiệu trên hai kỳ báo và xin phép được chọn cho mỗi phần giới thiệu một đề tựa tạm, nhẹ nhàng và mang tính văn nghệ một chút cho phù hợp với tiểu mục "Phố Nhỏ, Trường Xưa, Thầy Bạn Cũ". Khi tác phẩm được giới thiệu hoàn chỉnh, đương nhiên nó sẽ được mang đề tựa chính thức, phù hợp với một tác phẩm về biên khảo. Kính mong tác giả thông cảm. Xin cảm ơn.
ÐS CÐ - NTH

  
Tỉnh Bình Định trong quá khứ đã đổi tên nhiều lần, bắt đầu từ năm 1471, Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức thứ 2, đặt phủ Hoài Nhơn. Năm 1602, đời Lê Kính Tông, niên hiệu Hoằng Định thứ 2; chúa Nguyễn Hoàng đổi là phủ Qui Nhơn (Đại Nam Nhất Thống Chí ghi năm1604). Năm 1651, đời Lê Thần Tông, niên hiệu Khánh Đức thứ 3; chúa Nguyễn Phúc Tần cải danh là phủ Qui Ninh. Năm 1742, đời Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 3; chúa Nguyễn Phúc Khoát lấy lại tên cũ là phủ Qui Nhơn. Năm 1799, đời Nguyễn Quang Toản, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 7; Nguyễn Phúc Ánh cải đổi thành Bình Định, năm 1801 gọi là dinh Bình Định. Năm 1808, Nguyễn Thế Tổ, niên hiệu Gia Long thứ 7, đặt là trấn Bình Định. Và từ năm 1832, Nguyễn Thánh Tổ, niên hiệu Minh Mạng thứ 13, đổi ra tỉnh Bình Định cho đến ngày nay.

Theo bản đồ địa chánh và tài liệu thống kê [1] tính đến tháng 12 năm 1970, diện tích toàn tỉnh Bình Định là 9.024 km², với dân số 732.212 người, được phân bố như sau:

1/ Thị xã Qui Nhơn rộng 94,9 km², có 177.519 người.

2/ Quận Tuy Phước (tính cả nha Vân Canh) rộng 1.206 km², có 144.781 người, gồm các xã: Phước An, Phước Châu, Phước Hiệp, Phước Hòa, Phước Long, Phước Lộc, Phước Lý, Phước Nghĩa, Phước Quang, Phước Sơn, Phước Thành, Phước Thạnh, Phước Thắng, Phước Thuận, Canh Giao, Canh Hà, Canh Hưng, Canh Lãnh, Canh Lồ, Canh Phong, Canh Sơn, Canh Thành, Canh Thịnh, Canh Thông. Tổng cộng 24 xã, trong đó có 14 xã được kiểm kê dân số.

3/ Quận An Nhơn rộng 259,3 km², có 117.628 người, gồm các xã: Đập Đá, Nhơn An, Nhơn Hạnh, Nhơn Hậu, Nhơn Hòa, Nhơn Hưng, Nhơn Khánh, Nhơn Lộc, Nhơn Mỹ, Nhơn Phong, Nhơn Phúc, Nhơn Thành, Nhơn Thọ, Phước Hưng (nguyên thuộc quận Tuy Phước). Tổng cộng 14 xã, trong đó có 13 xã được kiểm kê dân số.

4/ Quận Phù Cát rộng 599,5 km², có 92.921 người, gồm các xã Cát Chánh, Cát Hanh, Cát Hiệp, Cát Khánh, Cát Minh, Cát Nhơn, Cát Sơn, Cát Tài, Cát Thắng, Cát Trinh, Cát Tường. Tổng cộng 11 xã, trong đó có 9 xã được kiểm kê dân số.

5/ Quận Phù Mỹ rộng 550,5 km², có 91.709 người, gồm 15 xã: Mỹ An, Mỹ Cát, Mỹ Chánh, Mỹ Đức, Mỹ Hiệp, Mỹ Hòa, Mỹ Lộc, Mỹ Lợi, Mỹ Phong, Mỹ Quang, Mỹ Tài, Mỹ Thành, Mỹ Thắng, Mỹ Thọ, Mỹ Trinh. Tổng cộng 15 xã và đều được kiểm kê dân số.

6/ Quận Bình Khê (tính cả nhaVĩnh Thạnh) rộng 1.334,9 km², có 73.770 người, gồm các xã Bình An, Bình Giang, Bình Hòa, Bình Nghi, Bình Phú, Bình Tân, Bình Thành, Bình Thuận, Bình Tường, Phụng Thiện, Vĩnh Châu, Vĩnh Hảo, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hòa, Vĩnh Hưng, Vĩnh Kim, Vĩnh Lâm, Vĩnh Nghĩa, Vĩnh Quang, Vĩnh Tường. Tổng cộng 20 xã, trong đó có 11 xã được kiểm kê dân số.

7/ Quận Hoài Nhơn (tính cả nha An Lão) rộng 872,7 km², có 93.890 người, gồm thị trấn Bồng Sơn và các xã: Hoài Đức, Hoài Hương, Hoài Mỹ, Hoài Tân, Hoài Xuân, An Bình, An Bửu, An Cư, An Dân, An Đồng, An Hảo, An Hậu, An Hòa, An Lạc, An Mỹ, An Ninh, An Nghĩa, An Phú, An Quý, An Sơn, An Tân, An Thạch, An Toàn, An Thành, An Tường. Tổng cộng 26 xã, trong đó 7 xã được kiểm kê dân số.

8/ Quận Hoài Ân rộng 648,2 km², có 32.794 người, gồm các xã Ân Đức, Ân Hữu, Ân Nghĩa, Ân Phong, Ân Thạnh, Ân Tín, Ân Tường, Vĩnh Danh, Vĩnh Điền, Vĩnh Định, Vĩnh Hoàng, Vĩnh Hữu, Vĩnh Ngãi, Vĩnh Nhàn, Vĩnh Nhơn. Tổng cộng 15 xã, trong đó có 5 xã được kiểm kê dân số.

9/ Quận An Túc rộng 3.332,3 km², có 35.515 người, gồm các xã An Định, An Khê, An Sơn, Bà Ba, Bà La, Bà Nâm, Cà Chang, Cửu An, Cửu Tú, Kan Nack, Sa Lam, Khói, Klom, Krong Kroi, Krong Kotu, Kon Nghe, Lúc Cúc, Sro, Srơn, Song An, Song Tân, Ta Mộc, Tài, Tân Cư, Tân Tạo An Dân, Thang, Trung Nhang, Tư Lương, Xu. Tổng cộng 29 xã, trong đó có 7 xã được kiểm kê dân số.

10/ Nha Tam Quan rộng 220,6 km², có 73.747 người, gồm các xã Đức Hựu, Hoài Châu, Hoài Hảo, Hoài Sơn, Hoài Thanh, Tam Quan. Tổng cộng 6 xã và đều được kiểm kê dân số.

Vậy tỉnh Bình Định trước năm 1975 có 1 thị xã, 8 quận và 4 nha, gồm 160 xã trong đó có 87 xã (chiếm tỷ lệ 54,37%) được kiểm kê dân số và có đến 73 xã (chiếm tỷ lệ 45,62%) vì mất an ninh không tiến hành kiểm kê dân số được. Mặc dù có đến gần nửa số xã trong tỉnh bị ảnh hưởng chiến tranh không mở được trường học, thế nhưng với tinh thần hiếu học của tỉnh nhà, tính đến niên khóa 1974- 1975, Bình Định có 49 trường trung học (không kể trường tiểu học), và phân phối như sau:

THỊ XÃ QUI NHƠN: 20 TRƯỜNG

01 - Trường Sư Phạm Qui Nhơn:

Trường Cao đẳng công lập được thành lập bởi Quyết định số 701- GD/PC/NĐ ký ngày 10- 5- 1962 của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa. Trường Sư phạm được xây cất trên thửa đất rộng ở Khu Sáu, mặt tiền ngó ra biển và giáp đường Nguyễn Huệ. Theo Trần Đình Thái, Ai Có Về Qui Nhơn [2], đồ án với kinh phí 20 triệu, xây cất trong 18 tháng mới xong và khánh thành ngày 3 tháng 10 năm 1962. Cơ sở gồm hai dãy lầu với đầy đủ phòng học, giảng đường, thư viện, phòng âm nhạc, câu lạc bộ, trung tâm y tế và chỗ ở cho một số viên chức nhà trường.

Tháng 12 năm 1967, trường xây cất thêm khu nội trú với kinh phí 737.761 Mỹ Kim và 11.320.754 đồng Việt Nam, gồm hai dãy lầu 3 tầng, một cho nam giáo sinh và một cho nữ giáo sinh, cách biệt nhau. Niên khóa 1969- 1970, khu nội trú này có 392 nam và 312 nữ. Mỗi khu nội trú có 1 văn phòng, 1 phòng tiếp khách rộng rãi, 1 phòng phát thuốc, 1 nhà giặt, 1 nhà ủi quần áo, 7 khu nhà tắm và vệ sinh, 6 đơn vị cư trú cho Quản đốc và Giám thị, khu công viên và sân chơi cho giáo sinh.

Ban đầu, trường thu nhận giáo sinh các tỉnh miền Trung từ Quảng Trị đến Phan Thiết. Từ niên khóa 1972- 1973 trường chỉ thu nhận giáo sinh 5 tỉnh gồm Quảng Tín, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Phú Bổn. Và niên khóa này, trường có khoảng gần 1000 giáo sinh, tính cả học viên năm thứ nhất với năm thứ hai.

Truong Su Pham Qui Nhon

Hình 1. Trường Sư Phạm Qui Nhơn - Ảnh tài liệu của Tạ Chí Thân, chụp năm 2004 [3]

Khóa học trong hai năm, tốt nghiệp với ngạch Giáo Học Bổ Túc. Chương trình giáo khoa năm thứ nhất gồm các môn chuyên nghiệp như: Sư phạm lý thuyết, Sư phạm chuyên biệt, Giáo dục cộng đồng, Tâm lý giáo dục, Luân lý chức nghiệp, Giáo dục y tế (Y tế học đường), Hoạt động thanh niên, Dụng cụ giáo khoa, Canh nông, Thủ công, Thể dục và Âm nhạc. Ngoài ra, còn các môn nâng cao trình độ học vấn như: Quốc văn, Sinh ngữ, Toán học ứng dụng, Hội họa. Năm thứ hai, chương trình giáo khoa gồm các môn: Sư phạm thực hành, Quản trị và Thanh tra học đuờng, Giao tế xã hội, Kinh tế chính trị, Giáo dục cộng đồng, Các vấn đề giáo dục, Thể dục thể thao, Hoạt động thanh niên, Giáo dục phụ nữ (cho giáo sinh nữ), ngành mộc (cho nam giáo sinh). Ngoài ra cũng học môn Quốc văn, Sinh ngữ, Âm nhạc, Hội họa để trau dồi trình độ văn hóa.

Từ năm 1962 đến 1975, trường Sư Phạm Qui Nhơn trải qua ba đời Hiệu trưởng, đầu tiên là Đinh Thành Chương, kế nhiệm Nguyễn Trọng Lương và vị Hiệu trưởng sau cùng là Trần Văn Mẫn. Trường cũng có vị Giám học, đầu tiên là Trần Văn Mẫn (lên làm Hiệu trưởng), kế tiếp là Lê Minh Tâm, sau cùng là Võ Sum, với Phụ tá Giám học là Dương Quang Phùng cho đến tháng 3 năm 1975.

02 - Trường Sư Phạm Thực Hành:

Trường được xây cất tại Khu 6, với kinh phí 500.000 đồng, bắt đầu hoạt động từ niên khóa 1965- 1966, Lương Thế Kiệt làm Hiệu trưởng từ đầu đến năm 1975. Đây là trường tiểu học kiểu mẫu dành cho giáo sinh trường Sư Phạm thực tập. Niên khóa 1972- 1973 trường có 12 lớp với 480 học sinh. Như vậy, trường Sư Phạm Thực Hành vừa dạy học sinh tiểu học, vừa đào tạo giáo sinh. Ngoài ra, hằng năm trong ba tháng hè, trường này còn dùng để tu nghiệp giáo viên từ các nơi gửi về, và nghiệp vụ này cũng do trường Sư Phạm đảm trách.

Tóm lại, tuy trường thu nhận học sinh cấp 1 và giảng dạy chương trình tiểu học, nhưng mục đích chính là dành cho giáo sinh thực tập và luyện tay nghề. Vì vậy, cũng được coi là trường Cao đẳng, đào tạo thầy giáo ngạch Giáo Học Bổ Túc.

03 - Trung Học Cường Để:

Trường công lập được thành lập từ năm 1955, niên khóa 1955- 1956 Trung Học Cường Để có 401 học sinh với 8 lớp, gồm 3 Đệ thất, 2 Đệ lục, 2 Đệ ngũ và 1 Đệ tứ (từ niên khóa 1970 - 1971 gọi là lớp 6, 7, 8, 9). Cơ sở trường nằm trên nền cũ của trường Collège de Qui Nhơn ở đường Võ Tánh. Mới đầu trường chỉ có dãy nhà tôn gồm 3 phòng và bên kia sân chơi là dãy nhà tranh cũng 3 phòng nằm đối diện, nơi đây dùng làm lớp học và văn phòng. Niên khóa 1956 - 1957, trường cất thêm một dãy nhà trệt lợp ngói, gồm 5 phòng, thành mô hình chữ U đáy rộng và rời.

TruongCuongDe

H 2: Trung Học Cường Để (trường mới), ảnh chụp dãy phòng học phía tây, cuối dãy là phòng Hiệu trưởng.

Niên khóa 1958- 1959, trường mở lớp Đệ tam [4] và dời dần các lớp về địa điểm mới, ở số 9 đường Cường Để. Và đến niên khóa 1964- 1965, trường cũ ở đường Võ Tánh được bàn giao cho trường Tiểu Học Nguyễn Huệ. Tại cơ sở mới, trường Trung Học Cường Để có trên 30 phòng học và 1 phòng thí nghiệm, có khu hành chánh dành cho Ban Giám đốc, Ban Giảng huấn, Ban Nhân viên văn phòng làm việc, và một Đại Thính đường chứa cả ngàn người, ở cuối sân trường, sát với hàng rào phi trường Qui Nhơn. Hội trường này do Sư đoàn Mãnh Hổ của Quân Đội Đại Hàn xây cất và biếu tặng cho trường vào năm 1965. Theo số liệu thống kê của Trần Đình Thái chép năm 1973, niên khóa 1972 - 1973 trường Cường Để có 3.227 học sinh. Cũng trong niên khóa này trường lập thư viện và GS Châu Văn Thuận giữ chức Quản thủ thư viện.

Tính đến năm 1975, Trung Học Cường Để hoạt động tròn 20 niên khóa, đây là trường Đệ Nhị cấp lớn nhất của tỉnh nhà, có 65 lớp, với chừng 3300 học sinh, và lớp 12 (lớp Đệ nhất cũ) mở đủ các ban A, B, C. Trường đã trải qua 6 đời Hiệu trưởng: Thái Vĩnh Thung (Quyền Hiệu trưởng, 1955), Đinh Thành Chương (1955- 1959), Tôn Thất Ngạc (1959- 1965) , Trương Ân (1965- 1971), Nguyễn Mộng Giác (1971- 1973), Nguyễn Phụ Chính (1973- 1975). Trường cũng có 4 đời Giám học: Nguyễn Đình Nhàn (1965 - 1968), Nguyễn Mộng Giác (1968 - 1971), Nguyễn Phụ Chính (1971 - 1973), Nguyễn Minh Đức (1973 - 1975). Và 3 đời Tổng Giám thị: Lương Thanh Danh (1959 - 1965), Võ Ái Ngự (1965 - 1968), Phạm Ngọc Bích (1968 - 1975).

Thành phần Ban Giám đốc sau cùng gồm: Nguyễn Phụ Chính, Hiệu trưởng; Nguyễn Minh Đức, Giám học; Võ Thăng (tiền nhiệm là Nguyễn Phúc), Phụ tá Giám học; Phạm Ngọc Bích, Tổng Giám thị; Nguyễn Hữu Vui (tiền nhiệm là Nguyễn Văn Sở), Phụ tá Tổng Giám thị.

04 - Nữ Trung Học Qui Nhơn:

Nguyên cơ sở này là Tư Thục Tân Bình, nằm trên đường Nguyễn Huệ, mặt tiền nhìn ra biển. Cuối năm 1963, trường này trở thành công lập, đổi tên là Nữ Trung Học Qui Nhơn, hợp thức hóa bằng Nghị định số 2214-GD/PC/NĐ ký ngày 4 tháng 12 năm 1964 của Bộ Quốc Gia Giáo Dục, và khai giảng niên khóa 1964 - 1965. Ban đầu, trường chỉ có các lớp Trung học Đệ Nhất cấp và được phát triển thành Đệ Nhị cấp. Niên khóa 1972 - 1973, trường sở phát triển tới 18 phòng học, với số sĩ số là 2.559 người, trong đó có 1.892 nữ sinh Đệ Nhất cấp và 667 nữ sinh Đệ Nhị cấp [5]. Cũng trong niên khóa này, trường mở lớp 10 ban C [6], nên không còn chuyển học sinh ban này vào học trường Cường Để nữa.

Nữ Trung Học Qui Nhơn là trường Công lập Đệ Nhị cấp có lớp 12 và trải qua ba vị Hiệu trưởng: đầu tiên Trần Thị Gia, rồi đến Vương Thúy Nga, sau là Lê Thị Cúc với thành phần Ban Giám đốc gồm: Giám học Tôn Nữ Thanh Tùng, Phụ tá Giám học Nguyễn Túc, Tổng Giám thị Nguyễn Thị Cam Vũ, Phụ tá Tổng Giám thị (không rõ). Đây là trường Nữ Trung Học Đồng Khánh (Huế) của Bình Định. Tính đến năm 1975, trường này lớn hàng thứ ba trong tỉnh, sau Trung Học Cường Để Qui Nhơn (65 lớp) và Trung Học Đào Duy Từ An Nhơn, Bình Định (56 lớp).

TruongNTH

H 3: Trường Nữ Trung Học Qui Nhơn

05 - Trung Học Kỹ Thuật:

Trường được thành lập bởi Nghị định số 954 - GD/PC/NĐ ký ngày 7 tháng 6 năm 1962 của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa, được khởi cất vào tháng 12 năm 1960 và khánh thành ngày 3 tháng 10 năm 1962. Trường có diện tích xây cất là 4630 m² [7] gồm: Khu Giảng dạy giáo khoa là dãy nhà lầu hai tầng, khu Thực tập là dãy nhà trệt dùng làm kho và cơ xưởng, khu phòng Thí nghiệm và Thư viện, khu Văn phòng, khu nhà ở cho nhân viên với hai biệt thự dành cho Hiệu trưởng và Cố vấn. Các khu nhà này được nối kết với nhau bằng những hành lang rộng. Và toàn bộ cơ sở tọa lạc trong khuôn viên rộng 5 ha² (mẫu tây) ở Khu Sáu, đường Nguyễn Huệ, mặt tiền nhìn ra biển.

Truong Ky Thuat Qui Nhon

H 4: Trường Trung Học Kỹ Thuật Qui Nhơn, khu cơ xưởng.

Niên khóa 1966 - 1967 được Bộ Quốc Gia Giáo Dục cho phép nâng lên thành trường Đệ Nhị cấp và hợp thức hóa bằng Nghị định số 1673- GD/PC/NĐ ngày 22 - 7- 1967. Những niên khóa đầu, trường Kỹ Thuật mở thi tuyển học sinh vào lớp Đệ thất. Về sau, trường nhận thấy hai lớp Đệ thất và Đệ lục, tuổi các em còn nhỏ, không thể thực tập ở các xưởng máy, nên chỉ thi tuyển học sinh lớp Đệ ngũ. Chương trình dạy 2 năm (lớp Đệ ngũ và Đệ tứ) cho bậc Đệ Nhất cấp và 3 năm (lớp Đệ tam, Đệ nhị, Đệ nhất) cho bậc Đệ Nhị cấp, nhằm đào tạo học sinh tốt nghiệp Tú tài Kỹ thuật, chuẩn bị vào Đại học Kỹ Thuật Phú Thọ. Trường còn mở chương trình Kỹ thuật Chuyên nghiệp, cũng học trong 5 năm, đào tạo chuyên viên. Ngoài các môn học chính về Kỹ thuật và Khoa học toán, trường còn dạy một số môn về Văn hóa.

Các đời hiệu trưởng, từ năm 1962 - 1964, Hiệu trưởng Khúc Xuân Mai, Tổng Giám thị là Bùi Thường.

Từ năm 1964 - 1966, Hiệu trưởng Nguyễn Thụy Ái, Giám học Vũ ngọc Hoán, Tổng Giám thị Bùi Thường.

Từ tháng 6 năm 1966 đến tháng 4 năm 1970, Hiệu trưởng Vũ Hữu Nho, Giám học Trần Hưng Bá, Phụ tá Giám học Vũ Ngọc Hoán, Tổng Giám thị Bùi Thường. Tổng Giám xưởng Lê Công Bôn coi tổng quát khu nhà kho và xưởng máy. Mỗi xưởng có một giáo sư phụ trách, gồm: Xưởng ô tô Nguyễn Oanh, Xưởng điện Tôn Thất Xứng, Xưởng kỹ nghệ sắt Nguyễn Cao Anh, Xưởng mộc (không nhớ), Xưởng máy dụng cụ (tiện) Huỳnh Thanh Nung.

Năm 1970 - 1975, Hiệu trưởng Nguyễn Bích, thành phần Ban Giám đốc vẫn như cũ, ngoại trừ chức Tổng Giám thị là Võ Đen thay cho Bùi Thường.

DaoDucChuong

H 5: Lớp Đệ Lục C, trong giờ Quốc văn do chúng tôi phụ trách, một học sinh chuyển đi xa, chào từ biệt Thầy và các bạn (năm 1963).

06 - Trung Tiểu Học Bồ Đề Qui Nhơn:

Trung Tiểu Học Bồ Đề Qui Nhơn là trường của Giáo Hội Phật Giáo tỉnh Bình Định, được thành lập năm 1957 có 6 phòng học, nằm bên hông chùa Long Khánh (trụ sở Tỉnh Hội Phật Giáo Bình Định). Nhu cầu học sinh càng ngày càng đông, năm 1968, trường dời ra khu Văn Hóa Xã Hội tại góc đường Ngô Quyền và Tăng Bạt Hổ, đối diện chùa Long Khánh. Cơ sở mới là dãy lầu ba tầng có 34 phòng học, mở từ lớp 1 đến lớp 12, với sĩ số 2060 học sinh trung học, 560 học sinh tiểu học.

Nếu chỉ tính riêng các trường tư trong tỉnh nhà, đây là trường Trung học tư thục Đệ Nhị cấp lớn nhất của Bình Định. Vị Hiệu trưởng cuối cùng là Bùi Văn Thân, Giám học Nguyễn Dần [8], Tổng Giám thị (không rõ).

Truong Bo De

H 6: Trường Trung Tiểu Học Bồ Đề Qui Nhơn

07 - Trung Học Vi Nhân:

Trường Trung học tư thục Đệ Nhị cấp của Công Giáo. Nguyên năm 1963, các Sư huynh dòng La San thuê Chủng Viện địa phận Qui Nhơn để mở trường Trung Học La San. Đến năm 1972 mãn hợp đồng thuê mướn, trường này dời vào Nha Trang.

Trước tình trạng học sinh La San ở Qui Nhơn bỗng dưng không có chỗ học hành, Đức Giám mục Qui Nhơn đã giao cho Linh mục Giám đốc Giáo dục Công Giáo thành lập Trung Học Vi Nhân, ngay trên cơ sở mà La San đã mãn hợp đồng thuê mướn của Chủng Viện. Trường khai giảng niên học 1972 - 1973 vào ngày 15 tháng 8 năm 1972, thu nhận 1.700 học sinh nam nữ từ lớp Sáu đến lớp Mười một, chia thành 23 lớp. Trường được điều hành bởi Linh mục Huỳnh Kim Lăng làm Hiệu trưởng và một số Linh mục, tu sĩ của địa phận Qui Nhơn phụ tá, với một Ban Giảng huấn có trên 50 giáo sư [9].

Khuôn viên của trường Trung Học Vi Nhân rộng 4 ha² (mẫu tây), cơ sở gồm khu nhà lầu ba tầng có một dãy dài 30 mét, dãy kia dài 27 mét 50, khu nhà trệt với 4 phòng và một nhà chơi. Ngoài ra, còn có một sân bóng tròn, hai sân bóng rổ và 4 sân bóng chuyền.

TruongVN

H 7: Trường Trung Học Vi Nhân

08 - Trung Tiểu Học Nghĩa Thục Tự Lực Qui Nhơn:

Trường tư thục Đệ Nhất cấp do ông Võ Trấp sáng lập và góp nhiều công sức, Hiệu trưởng là Mang Tấn Sĩ.
Cơ sở của trường nằm trong khuôn viên của Trung Tâm Huấn Luyện Nhân Dân Tự Vệ ở Gành Ráng. Niên khóa đầu, 1970 - 1971, trường mở 6 lớp ở bậc tiểu học, từ Mẫu giáo đến lớp Năm và có sắm hai xe đưa rước học sinh miễn phí. Từ niên khóa 1972 - 1973 mở thêm lớp 6, và phát triển thành trường Trung học Đệ Nhất cấp.

Đây là trường nghĩa thục đầu tiên của tỉnh Bình Định, con em của những gia đình tử sĩ, cô nhi quả phụ, hoặc Nhân dân tự vệ nghèo vào học được miễn phí hoàn toàn. Đối với học sinh gia đình khá giả, cũng chỉ thu 1/3 học phí, để thù lao cho 6 giáo viên.

09 - Trung Tiểu Học Trinh Vương:

Trường tư thục Đệ Nhị cấp của Công Giáo, Hiệu trưởng là Soeur Lê Thị Phi Hường. Đây là trường nữ trung học thứ hai của tỉnh nhà.

Trường được thành lập vào năm 1958, bởi Đức Cha Phê- rô Phạm Ngọc Chi, lúc ấy là Giám mục địa phận Qui Nhơn, và giao cho các Nữ tu dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn điều hành.

Cơ sở của trường là những dãy lầu ba tầng được xây cất năm 1957 đến 1958. Ngoài các phòng học còn có khu Kỹ thuật, khu Ký nhi viện, Ký lưu trú và khu Vườn trẻ. Khuôn viên trường rộng gần 2 mẫu tây, chung quanh có tường cao, nằm ở góc đường Gia Long và Hàn Thuyên.

Theo Trần Đình Thái [10], niên khóa 1958 - 1959 trường có 4 lớp tiểu học và 4 lớp trung học, với gần 400 học sinh. Niên khóa 1972 - 1973, trường phát triển đến 33 lớp tiểu học và 20 lớp trung học, trở thành Đệ Nhị cấp, và ở bậc trung học từ lớp 6 đến lớp 12 trường chỉ thu nhận nữ sinh.

Trinh Vương Qui Nhơn

H 8: Trường Trung Tiểu Học Trinh Vương ( Ảnh từ http://tvqn.info )

10 - Trung Học Tây Sơn:

Trường tư thục Đệ Nhị cấp, Hiệu trưởng Trương Vĩnh Nghi (công chức hồi hưu), Giám học Nguyễn Thị Phong, Tổng Giám thị ... Long (không nhớ họ), thư ký trưởng Nguyễn Ngọc Liên, thư ký Nguyễn Thị Giăng (hai người sau đều có cổ phần).

Trường thành lập khoảng năm 1965, vốn đầu tư gồm 20 cổ phần, ông Nguyễn Châu là sáng lập viên, bỏ vốn nhiều nhất với 5 cổ phần, được bầu làm làm Giám đốc điều hành, còn 15 cổ phần chia đều cho bà con và bạn bè.

Trường Tây Sơn tọa lạc trên đường Gia Long nối dài (nay là đường Trần Hưng Đạo), thuộc Khu 4 Qui Nhơn, gần kho xăng Ông Tề, mặt trước ngó ra núi Bà Hỏa, sau lưng là đầm Thị Nại. Cơ sở trường xây theo hình chữ T, gồm một dãy lầu hai tầng có 8 phòng học, một dãy nhà trệt có 2 lớp học, văn phòng nằm giữa ba sân chơi, và quanh rào là những hàng dừa xiêm rợp bóng.

Niên khóa 1965 - 1966, trường mở 2 lớp Sáu, năm sau tăng 3 lớp Sáu và 2 lớp Bảy. Niên khóa 1971- 1972 trường mở lớp 10, niên khóa 1973 - 1974 có lớp 12, và lúc bấy giờ Nguyễn Thị Phong làm Giám học. Niên khóa 1974 - 1975, trường phát triển 18 lớp.

TruongTaySon

H 9: Trường Trung Học Tây Sơn

11 - Trung Học Nhân Thảo:

Trường tư thục Đệ Nhị cấp, GS Đinh Thành Chương đứng tên làm Hiệu trưởng.

Trường Nhân Thảo hoạt động từ năm 1960, niên khóa đầu 1960 - 1961 dùng tạm cơ sở tại căn lầu ở góc đường Võ Tánh và Hai Bà Trưng. Niên khóa sau, trường dời về khu nhà số 2, đường Trần Cao Vân, và cũng chỉ mở các lớp Đệ Nhất cấp.

Niên khóa 1963 - 1964, trường được cấp giấy phép mở Đệ Nhị cấp, mang số 3337- GD/HV/4 ký ngày 13 tháng 8 năm 1963. Nhưng rồi trường bị đóng cửa các lớp Đệ Nhị cấp một thời gian [11], sau được phép hoạt động lại.
Niên khóa 1972 - 1973, trường phát triển đến 1000 học sinh, mở từ lớp Sáu đến lớp Mười hai có cả ban A và B.

TruongNhanThao

H 10: Trường Trung Học Nhân Thảo

12 - Quang Trung Nghĩa Thục:

Trường tư thục Đệ Nhị cấp, Giám đốc sáng lập Lê Văn Ba, Hiệu trưởng Đặng Đức Thông, Giám học Nguyễn Thị Xuân Lan (kể từ niên khóa 1973 - 1974), Tổng Giám thị Nguyễn Cẩm Nhung, Thư ký văn phòng Nguyễn Văn Tại.
Năm 1972, Chủ tịch Tỉnh Thị Hội Giáo Giới Bình Định là GS Lê Văn Ba thương lượng với Thiếu tá Trưởng khu Gia Binh (tên là Bính, không nhớ rõ) đang điều hành trường Văn Hóa Quân Đội, xin dãy nhà 4 phòng học có sẵn bàn ghế và tiện nghi nằm trong trại Gia Binh ở Khu Sáu, để thành lập trường Quang Trung Nghĩa thục.

Niên khóa đầu, 1972 - 1973, Quang Trung Nghĩa Thục mở 2 lớp Sáu, 2 lớp Bảy, 1 lớp Tám và 1 lớp Chín, thu nhận 400 học sinh, học miễn phí. Ban giảng huấn phần lớn là hội viên của hội Giáo Giới Bình Định, ghi danh tình nguyện dạy không lương, gồm 45 vị trực tiếp dạy và 25 vị dự khuyết. Các môn dạy đầy đủ như một trường công lập vì có cả môn Hội họa và Nữ công gia chánh; đặc biệt trường còn dạy môn Dân tộc học và Võ thuật.

Năm sau, Tỉnh Thị Hội Giáo Giới vận động phụ huynh học sinh cùng Mạnh Thường Quân đóng góp xây thêm hai phòng học nữa, hội cũng nhờ Liên Đoàn 6 Công Binh của Đại tá Lưu Văn Dũng giúp nhân công và vật liệu. Hai phòng mới bằng gạch, lợp tôn, tiếp nối với dãy nhà cũ thành hình chữ U. Số học sinh tăng lên thành 8 lớp và có mở lớp 10. Niên khóa 1974 - 1975, trường có 11 lớp gồm: 3 lớp Sáu, 2 lớp Bảy, 2 lớp Tám, 2 lớp Chín, 1 lớp Mười và 1 lớp Mười một.

Quang Trung Nghĩa Thục là trường tư nhưng không thu học phí, cũng không có tài trợ của Bộ Giáo Dục nhưng vẫn sinh hoạt được là nhờ trường có thành lập ban bảo trợ hùng hậu, vị Chủ tịch là ông Ngô Khuôn (thân phụ của Trung tướng Ngô Du) nên hội hoạt động rất mạnh.

13 - Trung Học Viên Giác:

Nguyên là trường tư thục tiểu học trong khuôn viên chùa Viên Giác của thầy Huyền Ấn ở Khu 6. Bắt đầu niên khóa 1970 - 1971, trường mở 1 lớp 6, Hiệu trưởng là GS Hoàng Kim Long. Niên khóa 1971- 1972, trường phát triển với 2 lớp Sáu và 1 lớp Bảy. Niên khóa 1972 - 1973, có 5 lớp trung học gồm 1 lớp Tám, 2 lớp Bảy và 2 lớp Sáu. Niên khóa 1973- 1974 có lớp Chín, và cứ thế, số lớp tăng dần cho đến cuối tháng 3 năm 1975 thì chấm dứt.

14 - Trung Học VHQÐ Lê Lợi:

Ngoài trường Văn Hóa Quân Đội ở Sài Gòn đã hoạt động từ lâu, năm 1970, Cục Xã Hội thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị thành lập thêm 9 trường nữa trên toàn quốc Việt Nam Cộng Hòa, nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của con em binh sĩ. Vì thế, trường Trung Học Văn Hóa Quân Đội Lê Lợi Qui Nhơn ở Khu Sáu, gần Gềnh Ráng, phía sau trường Trung Học Kỹ Thuật, ra đời trong dịp này. Trường do Tiểu Đoàn 12 Công Vụ thuộc Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận tổ chức và điều hành. Hiệu trưởng đầu tiên là Chuẩn úy Nguyễn Mạnh Dạn, và do Cục Xã Hội Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị quản lý; nhưng việc giảng dạy hoàn toàn theo đúng với chương trình của Bộ Quốc Gia Giáo Dục ấn định.

Năm 1971, do nhu cầu cải tổ của quân lực, Tiểu Đoàn 12 Công Vụ giải thể. Trường Văn Hóa Quân Đội Lê Lợi được bàn giao cho Tiểu Khu Bình Định. Trường được cải danh là Trung Tiểu Học Quân Đội Lê Lợi, do Thiếu úy Văn Công Hạ làm Hiệu trưởng, quản nhiệm cả hai cơ sở Tiểu học và Trung học Đệ Nhất cấp.

Niên khóa 1972 - 1973, trường phát triển đến lớp Chín. Mùa hè năm 1973, Quân đội trao 4 lớp bậc trung học (1 Sáu, 1 Bảy, 1 Tám, 1 Chín) và một dãy nhà gồm 5 phòng cho Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Cơ sở này mang tên mới là trường Trung Học Lê Lợi.

Niên khóa 1973 - 1974, Ngô Đình Phùng được cử làm Hiệu trưởng của trường này, và phát triển thêm 1 lớp Sáu nữa. Giáo sư cơ hữu có Ngô Đình Phùng, Nguyễn Thanh, Nguyễn Tư... và nhiều Giáo sư các trường khác đến dạy giờ, ngoài ra có Đại úy Phan Ngô cộng tác với trường.

Niên khóa 1974 - 1975, trường có 2 lớp Sáu, 2 lớp Bảy, 1 lớp Tám và 1 lớp Chín nên phải xây thêm 2 phòng học lợp ngói, tiếp nối với 5 phòng cũ thành hình chữ L, giữa sân là trụ cờ cũng khánh thành một lượt với phòng ốc.

Đầu năm 1975, trường được Bộ Giáo Dục đổi danh xưng một lần nữa là Trung Học Lam Sơn, nhận được Quyết định chưa được bao lâu thì ngày 1 - 4- 1975 Qui Nhơn thất thủ và trường cũng bị xóa tên.

NguyenManhDan

CHT/Tiếp Vận II Đại tá Phạm Thanh Nghị, TĐT/12CVThiếu tá Nguyễn Ngọc Thủy, HT/VHQĐ Lê Lợi: Chuẫn Úy Nguyễn Mạnh Dạn

15 - Trung Học Đống Đa:

Tiền thân là trường Tiểu Học Phan Đình Phùng, Hiệu trưởng Nguyễn Tuấn Đức. Trường được Bộ Giáo Dục cho mở lớp 6 và cứ thế phát triển dần, Nguyễn Tuấn Đức vẫn làm Hiệu trưởng. Khi Nguyễn Tuấn Đức mất, Nguyễn An Phong lên thay, sau là Huỳnh Kim Phát.

16 - Trung Học Đặng Đức Siêu:

Trường tư thục Đệ Nhất cấp.

17 - Trung Học Phước Hậu:

Nguyên là Trường Tiểu Học Phước Hậu tọa lạc trên khoảnh đất rộng rãi, sát nách với Chợ Dinh, ngó ra Quốc lộ 1, tại ngã ba nối với xa lộ mới. Khoảng năm 1972, trường được nâng lên thành trường Công lập Đệ Nhất cấp, và Hiệu trưởng là Lê Đình Cự.

18 - Trung Tiểu Học Sùng Nhơn:

Trường tư thục Sùng Nhơn của người Hoa, dạy song ngữ, tiếng Tàu và Việt. Ban đầu chỉ mở dạy bậc tiểu học, sau phát triển thành trường Trung học Đệ Nhất cấp.

Nguyên là ngôi Đình của người Hoa Kiều, nằm trên đường Bạch Đằng, ngó ra đầm Thị Nại, xây dựng từ thới Pháp thuộc, thờ Thánh Quan Công. Cơ sở kiến trúc xưa, tường xây gạch, lợp ngói âm dương, mái cong, có nhiều hình điêu khắc và chạm trổ trên các cửa lớn và nhỏ.

Khi thành lập trường Sùng Nhơn, cơ sở này được tu bổ và sửa chữa thành những lớp học. Trường có khoảng mười phòng, xếp thành hai dãy song song, giữa là chánh điện thờ Quan Thánh, dùng làm phòng hiệu trưởng và văn phòng. Sân trường rộng, tráng xi măng, dùng trong các buổi chào cờ, tiếp đến là sân bóng rổ. Trước trường có hai cây bàng lớn, tàng cây che mát cả sân chơi, và những hàng phượng vĩ đỏ rực mùa hè. Cổng chính nằm trên đường Bạch Đằng. Trường còn hai cổng phụ, ở hai bên hông, trổ ra hai đường ngang song song và nối đường Gia Long với Bạch Đằng.

Vì trường song ngữ nên có hai nhóm thầy giáo: Ban tiếng Việt, dạy đúng theo chương trình của Bộ Quốc Gia Giáo Dục VNCH. Về tiếng Hoa, dạy theo trình độ của các trường Tàu Chợ Lớn, được qui định bởi chương trình ở Đài Loan. Do đó, các học sinh phải theo học mỗi ngày 7 hay 8 giờ, suốt từ thứ hai đến thứ bảy.

TruongSungNhon

H 11: Trường Trung Tiểu Học Sùng Nhơn

Khoảng năm 1960, Ban Hiệu trưởng, bên Hoa ngữ, có ông Vương Nhật Phi người gốc Đài Loan, không biết tiếng Việt. Bên Việt ngữ, có thầy Lâm Du Hòa đảm nhiệm chức Hiệu trưởng, vừa điều hành giấy tờ hành chánh. Thành phần Giáo sư khoảng 20 vị, gồm người địa phương và một số chuyển từ Chợ Lớn. Vì là trường tư và dạy song ngữ, phải thuê mướn giáo sư từ xa đến, giá thành cao, nên học phí rất đắt so với các trường tư thục Việt đương thời. Nhờ có nhiều Mạnh Thường Quân, con em người Hoa những gia đình nghèo được xét trợ cấp, nên có thể theo học.

19 - Trung Học Triều Thuận:

Trường tư thục Đệ Nhất cấp của người Hoa, chưa có lớp 9.

20 - Trung Học Tăng Bạt Hổ ở Qui Nhơn:

Năm 1955, Chính Quyền Quốc Gia tiếp thu tỉnh Bình Định. Ngay trong niên khóa đầu tiên 1955- 1956, Bộ Giáo Dục cấp tốc xây dựng trường ốc và mở tại tỉnh nhà hai trường Trung học Đệ Nhất cấp, đáp ứng nhu cầu số đông học sinh bị dở dang học hành trong nhiều năm vì chiến tranh. Bắc Bình Định có trường Tăng Bạt Hổ ở Bồng Sơn, phía Nam là trường Cường Để ở Qui Nhơn.

Song song với Trường Cường Để, trường Tăng Bạt Hổ cũng mở lớp Đệ tam vào niên khóa1958- 1959. Từ năm 1962, trường này có nghị định chuyển thành Trung học Đệ Nhị cấp, và đứng hàng thứ hai các trường trung học trong tỉnh.
Nhưng vào tháng 3 năm 1972, đồng bào ba quận Bắc Bình Định di tản chiến thuật, vào trại tiếp cư ở Phú Tài và Qui Nhơn, trường Tăng Bạt Hổ phải đóng cửa. Lúc ấy, ông Nguyễn Công Lượng (người địa phương) đang là Phó Quận trưởng Hoài Nhơn, vận động cho trường tái hoạt động ở Qui Nhơn, để số học sinh tản cư được tiếp tục học hành. Về mặt giấy tờ, nhà trường gửi văn thư xin Bộ Quốc Gia Giáo Dục cho phép dời địa điểm. Mặt khác, Nguyễn Công Lượng vào Sài Gòn yết kiến ông Ngô Khắc Tĩnh, Bộ Trưởng Giáo Dục, xin được giấy phép tái hoạt động tại Trung Tâm Sinh Hoạt Giáo Giới (nguyên là Ký Túc Xá Học Sinh), số 18 đường Nguyễn Huệ ở Qui Nhơn. Cơ sở này, nguyên của Tỉnh Thị Hội Giáo Giới Bình Định nhường lại, và nhờ có Liên Đoàn 6 Công Binh tình nguyện sửa chữa thành một trường học. Mọi việc tiến hành tốt đẹp, trường kịp khai giảng niên khóa 1972 - 1973, vào ngày 26 - 10- 1972 .

TruongTBH

H 12: Trường Trung Học Tăng Bạt Hổ ở Qui Nhơn

Từ ngày trường Tăng Bạt Hổ dời vào Qui Nhơn, sĩ số chỉ còn hơn một nửa, số lớp cũng bớt lại, không còn giữ vị trí thứ hai các trường lớn của tỉnh. Tuy vậy, Ban Giáo sư vẫn nguyên vẹn nên việc giảng dạy rất tốt, và tồn tại 3 niên khóa, qua các đời Hiệu trưởng sau đây:

- Năm 1972, Lê Ninh Hậu, Xứ lý thường vụ Hiệu trưởng trong thời gian ngắn.

- Niên khóa 1972- 1973, Hiệu trưởng Lê Văn Minh, Tổng Giám thị Nguyễn Hữu Hồng.

- Năm 1973, Đào Văn A tạm thời Xử lý thường vụ.

- Từ 1973- 1975, Hiệu trưởng Hồ Sĩ Duy, Giám học Nguyễn Ngọc Trân, Phụ tá Giám học Nguyễn Cao Trợ, Tổng Giám thị Nguyễn Hữu Hồng, Phụ tá Tổng Giám thị Ngô Văn Lâu.

Qui Nhơn, lúc bấy giờ chưa mở rộng để nâng lên cấp thành phố mà đã có 19 trường trung học định cư vĩnh viễn và 1 trường tạm trú, đó là trường Trung Học Tăng Bạt Hổ di tản từ quận Hoài Nhơn và tái hoạt động tại Qui Nhơn. Trong 20 trường trung học ở Qui Nhơn, gồm có 2 trường Cao đẳng, 10 trường Đệ Nhị cấp và 8 trường Đệ Nhất cấp.

Trước tháng tư năm 1975, Qui Nhơn chỉ là một thị xã, mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh, nhưng vẫn có đến 20 trường trung học đang hoạt động và trên đà phát triển. Hơn thế nữa, Qui Nhơn chuẩn bị mở trường Đại Học vào niên khóa 1977 - 1978. Bộ Giáo Dục dự định đề cử Giáo sư Lê Bảo Xuyến (phu nhân của GS Lê Văn, người quận Phù Mỹ), làm Viện trưởng. Niên khóa đầu, mở Văn Khoa rồi đến Luật khoa, Sư phạm và Khoa học. Đủ chứng tỏ dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa, nền Quốc Gia Giáo Dục rất thịnh hành.

(Còn tiếp 1 kỳ nữa: Trường Trung học ở các quận)


Đào Đức Chương


GHI CHÚ

[1] Nguyễn Đình Đầu, Nghiên Cứu Địa Bạ Triều Nguyễn – Bình Định, tập I (Sài Gòn, nxb TP/HCM, 1996), trang 131- 136.

[2] Trần Đình Thái, Ai Có Về Qui Nhơn (Sài Gòn, Tủ Sách Đẹp Quê Hương xb., 1973), trang 55- 57.

[3] Ảnh các trường trung học ở Qui Nhơn đăng trong bài này (trừ hình 5), do Hội Liên Trường cung cấp. Hội này, do một số cựu Giáo sư và cựu Học sinh thuộc các trường Trung Học ở Qui Nhơn thành lập, tại Thủ Đô Người Việt Tị Nạn: Little SaiGon, quận Cam.

[4] Từ niên khóa 1957- 1958, học sinh lớp Đệ tứ đủ điểm trung bình toàn niên, nhưng thi lấy bằng Trung học Đệ Nhất cấp không đỗ, vẫn được lên lớp Đệ tam. Và từ niên khóa 1967- 1968, Bộ Quốc Gia Giáo Dục quyết định bỏ thi Trung học Đệ Nhất cấp, nhưng vẫn còn duy trì thi Tú tài bán phần.

[5] Trần Đình Thái, sách đã dẫn, trang 59.

[6] Từ niên khóa 1970- 1971, Bộ Quốc Gia Giáo Dục cải tổ, đổi danh xưng các lớp. Bậc tiểu học, tên cũ là: lớp năm, tư, ba, nhì, nhất nay gọi là lớp 1, 2, 3, 4, 5. Bậc trung học đệ nhất cấp, tên cũ là: đệ thất, đệ lục, đệ ngũ, đệ tứ; nay gọi là lớp 6, 7, 8, 9. Bậc trung học đệ nhị cấp, tên cũ là: đệ tam, đệ nhị, đệ nhất; nay gọi là lớp 10, 11, 12.
Cũng từ niên khóa này, bỏ kỳ thi Tú tài I (tức Tú tài bán phần), học sinh lớp 11 nếu cuối niên học đủ điểm trung bình, được lên lớp 12. Và cuối niên học lớp 12, thi lấy bằng Tú tài (tức Tú tài II, hayTú tài toàn phần cũ). Vậy suốt trong 12 năm, học sinh chỉ trải qua 2 kỳ khảo hạch: Thi vào lớp 6 để được học trường công lập, khỏi đóng học phí hàng tháng. Thi tốt nghiệp để lấy bằng Tú tài.

[7] Trần Đình Thái, sách đã dẫn, trang 58.

[8] Từ ngày GS Nguyễn Dần được Bộ Quốc Gia Giáo Dục cho vào chính ngạch, trên giấy tờ không thể đứng tên làm Giám học cho một trường tư được nữa, nhưng thực tế vẫn còn đảm nhận chức năng này cho trường Trung Học Bồ Đề Qui Nhơn.

[9,10,11] Trần Đình Thái, sách đã dẫn, trang 60, 62, 59.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

- NGUYỄN ĐÌNH ĐẦU; Nghiên Cứu Địa Bạ Triều Nguyễn – Bình Định, tập I; Sài Gòn, nxb TP/HCM, 1996.
- TRẦN ĐÌNH THÁI; Ai Có Về Qui Nhơn; Sài Gòn, Tủ Sách Đẹp Quê Hương xuất bản, 1973.
- QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN; Đại Nam Nhất Thống Chí, Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, tập 3 (tỉnh Bình Định); Hà Nội, nxb Khoa Học Xã Hội, 1971.

- PHỎNG VẤN QUA ĐIỆN THOẠI:

Ngày 14- 11- 2004, phỏng vấn các ông: Nguyễn Công Lượng, cựu Phó Quận trưởng Hoài Nhơn, hiện ở Huntington Beach, California (CA); Lê Văn Ba, cựu Chủ tịch Tỉnh Thị Hội Giáo Giới Bình Định, hiện ở Westminster CA ; Vũ Hữu Nho, cựu Hiệu trưởng Trung Học Kỹ Thuật Qui Nhơn, hiện ở Houston, Texas (TX); Võ Đen, cựu Tổng Giám thị Trung Học Kỹ Thuật, hiện ở Dorchester, Massachusetts (MA).

Ngày 19- 11- 2004, phỏng vấn ông Huỳnh Hữu Dụng, cựu Ty Trưởng Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên tỉnh Bình Định, hiện ở San Jose, California (CA).

Ngày 29- 11- 2004, phỏng vấn bà Nguyễn Thị Phong, cựu Giám học Trung Học Tây Sơn Qui Nhơn hiện ở San Jose, California (CA).

Ngày 15- 4- 2005, phỏng vấn ông Lê Đại Đồng, cựu Giáo sư kiêm Trưởng ban Thể thao trường Trung Học Cường Để, hiện ở Houston, Texas (TX).

Ngày 30- 6- 2007, phỏng vấn ông Trần Minh Lợi cựu Giáo sư trường Trung Học Viên Giác, hiện ở San Jose, California (CA).

Ngày 6 tháng 11 năm 2007, phỏng vấn ông Du Sơn Lãng Tử cựu học sinh Trung Học Sùng Nhơn, hiện ở San Rafael, California (CA).

Ngày 16- 5- 2009, phỏng vấn ông Ngô Đình Phùng, cựu Hiệu trưởng Trung Học Lê Lợi, hiện ở Augusta, Georgia (GA).

Ngày 22- 4- 2010, Email của Nguyễn Mạnh Dạn, nguyên Hiệu trưởng trường Trung Học Văn Hóa Quân Đội Lê Lợi, hiện ở Houston, Texas (TX).