Thơ

TRÔI THEO VẬN NƯỚC
Bài thơ tặng vợ

Lặn lội thân cò dưới nắng sương
Nuôi chồng "cải tạo" lệ sầu thương
Con thơ bảy đứa còn ngây dại
Nhà khó ba gian bị nhiễu nhương
Trước mắt chập chờn cơn ác mộng
Sau lưng rình rập lũ ma vương
Biết ai bày tỏ niềm tâm sự
Nước mất nhà tan, luống đoạn trường.

Kim Sơn, 1975


THÂN PHẬN

Lên voi xuống chó đã nhiều phen
Vận nước suy tàn, số cũng đen
Thất thế sa cơ, nhiều kẻ trọng
Đương quyền tại vị, lắm người khen
Tu mi nam tử từng ngang dọc
Lao lý ngục tù chẳng ố hoen
Cái nợ phong trần chưa trả dứt
Phương trời phiêu bạt phải bon chen.

6/1992


THAO THỨC
Một mình vò võ suốt canh thâu
Thao thức chờ ai, ướm bạc đầu
Tiếng quốc vọng hồi, nghe ruột xót
Con thuyền lạc hướng, thấy lòng đau
Thức đêm mới biết đêm dài, ngắn
Lạ bến chưa tường bến cạn, sâu
Chị Nguyệt ỡm ờ bên cửa đợi
Rõ mình cũng đáng mặt mày râu!


GỬI CHỊ HẰNG

Chị Hằng e ấp chín tầng mây
Có phải cô đơn tự bấy nay
Đêm xuống, trộm nhìn người thế tục
Ngày lên, lẩn tránh khách râu mày
Nhân gian có lắm trò hư ảo
Nguyệt quế không màng chuyện đổi thay
Ta muốn lên ngồi thay chú Cuội
Cận kề người đẹp ngắm mây bay.


NHỚ CHA

Thức giấc hằng đêm con nhớ cha
Cuộc đời nhà giáo lắm phong ba
Bao phen lận đận niềm đau nước
Mấy bận lao đao mối hận nhà
Cha đã thong dong miền cực lạc
Con còn bịn rịn cõi phồn hoa
Quê hương cách trở, đau lòng mẹ
Gẫm lại chuyện đời, con giống cha.


NHỚ QUI NHƠN

Một thoáng trôi qua, sáu chục ngoài
Đường đời nhiều đoạn lắm chông gai
Trường xưa nỡ để bao thu nhạt
Phố cũ không về mấy hạ phai
Sóng bạc lẳng lơ làn cát mọng
Dừa xanh lơi lả ánh trăng cài
Qui nhơn giã biệt chiều đông ấy
Biết có ai còn thương nhớ ai!


XUÂN VỀ TRÊN QUÊ MỚI

Quê người lưu lạc chín xuân qua
Tết đến nhâm nhi tí rượu trà
Hoa quả chưng bày, gìn tập tục
Nhang đèn chong đốt, rước ông bà
Sáng đi tới sở, lòng thanh thản
Chiều trở về nhà, trẻ ríu ra
Ngày nghỉ cuối tuần con cháu đến
Sáu mươi lăm tuổi vẫn chưa già.

Xuân Canh Thìn, 2000


VỀ THĂM BỒNG SƠN

Tôi về thăm lại phố Bồng sơn
Tình nghĩa mặn nồng, dạ nhớ thương
Bạn cũ kiếm tìm, đi tứ xứ
Người quen dọ hỏi, biệt ngàn phương
Núi cao trơ trụi không cây phủ
Sông rộng khô cằn chẳng nước trương
Đứng giữa quê mình như kẻ lạ
Lòng nghe man mác nỗi buồn vương.


NGÀY THÁNG QUA MAU

"Ngũ thập niên tiền nhị thập tam"*
Trong lòng lắm việc vẫn chưa cam
Ngày vui cuộc sống bên trời Mỹ
Tối nhớ quê nghèo ở đất Nam
Nhà cửa, áo cơm không phải bận
Tiền tài, danh vọng chẳng còn ham
Chuyện đời phó mặc đàn con cháu
Hưởng cảnh thanh nhàn đến tuổi trăm.

Xuân Đinh Hợi, 2007
* Thơ Nguyễn Công Trứ, 50 năm trước 23 tuổi


THĂM SAN JOSE
Thân tặng Đặng Đức Bích, Nguyễn Bá Thư

Lần đầu ghé đến San José
Nắng ấm Cali trải bốn bề
Gặp mặt bạn bè bao cách trở
Thăm miền thung lũng lắm đam mê
Thời gian hội ngộ sao qua chóng
Khoảnh khắc chia ly lại đến kề
Cảnh sắc, thân tình lưu luyến khách
E không còn nhớ nẻo đi về.

July, 2005


CHUYỆN TRẦN AI

Ta nay tuổi đã bảy mươi hai
Răng rụng, mắt mờ, lại lảng tai
Kẻ trước người sau, trò thế tục
Tre tàn măng mọc, chuyện trần ai
Lợi danh như thể làn mây trắng
Thân xác chỉ còn nấm đất phai
Đời chẳng có gì là vĩnh cửu
Cớ sao thiên hạ đấu nhau hoài!

Xuân Bính Tuất, 2006


MẸ TÔI

Chúc mừng mẹ thọ chín mươi lăm
Mười mấy xuân sang cứ mãi nằm
Con tạo trớ trêu nào oán trách
Ông trời đày đọa dám hờn căm
Cháu con tứ xứ không thường viếng
Bè bạn đôi bờ chẳng tiện thăm
Trông mẹ héo mòn đau xót dạ
Biển đời lặn lội ngót trăm năm.

Florida, Giáng sinh 2007


XUÂN TRÊN ĐẤT KHÁCH

Tuyết trắng đầy trời lất phất bay
Ở đây nỗi nhớ lúc vơi, đầy
Quê cha êm ấm sao đành bỏ
Đất khách lạnh lùng há phải vay
Đón Tết khề khà đôi chén rượu
Mừng Xuân lẩn thẩn mấy vần cay
Trớ trêu con tạo đa đoan nhỉ
Thế sự mơ màng, chếnh choáng say.


XUÂN TÌNH

Nàng Xuân lặng lẽ đợi bên song
Có phải năm nay định kén chồng
Nếu chẳng hữu tình sao muốn gặp
Bằng không duyên nợ cớ chi mong
Trăm năm còn lại gần ba chục
Một thoáng trôi đi quá nửa dòng
Đã đến đây rồi xin ở lại
Cùng ta xe kết sợi tơ hồng.


RỒI CÓ MỘT NGÀY

Rồi có một ngày ta phải đi
Đời người lạc thú lẫn ai bi
Thuận hòa hạnh phúc gia đình thịnh
Hoạn nạn đau buồn vận số suy
Thu đến, mận đào thay sắc lá
Xuân về, tùng cúc gợi hồn thi
Nhân sinh cuộc sống sao mà ngắn
Lưu lại mai sau được những gì?


Ngô Đình Phùng



Vài hàng về tác giả:

 - Sinh ngày: 27-6-1935 (Ất Hợi)
 - Tại Phú ninh, Phù mỹ, Bình Định
 - Trước 1975:
 - Giáo sư Trung Học
 - Hiệu Trưởng trường Trung Học Lê Lợi, Qui nhơn
 - Sĩ Quan QLVNCH, khóa 18/SQTB Thủ Đức (1964)
 - Sau 1975:
 - Tù cải tạo tại trại Kim sơn (Bình định), Gia trung (Pleiku) từ 1975 đến 1980
 - Định cư tại Hoa Kỳ theo chương trình tị nạn HO, tháng 11-91
 - Thơ, văn đã đăng trên một số báo, đặc san Việt ngữ tại Georgia, California, Texas
 - Góp mặt trong Tuyển tập thơ HOA VÔNG VANG (2003)
 - Góp mặt trong Thi Tập CỤM HOA TÌNH YÊU số 7-8-9-10-11 (2002-06)
 - Hội thơ Tài Tử Việt Nam Hải Ngoại
 - Hiện ở tại Augusta,Georgia

Trích từ Đường Thi Bình Định, tuyển tập thơ do Bút Duyên Hội Tụ xuất bản năm 2009 tại Hoa Kỳ.