Trang thông tin liên lạc của cựu Giáo Sư và học sinh Trung Học Cường Để Qui Nhơn

Trang Facebook của cuongde.org

  • DaiThinhDuong1200
  • hinhCu 1200
  • CD4 1200
  • NhaGiuXe1200

Bờ biển tỉnh Bình Định có chiều dài 134 km, nếu tính cả hệ số quanh co là 148 km. Dọc theo đoạn bờ biển ấy, từ Bắc xuống Nam có ba đầm lớn: đầm Trà Ổ ở huyện Phù Mỹ, có khúc sông Châu Trúc thông ra biển bằng cửa Hà Ra; đầm Nước Ngọt nằm giữa hai huyện Phù Mỹ và Phù Cát, với con ngòi thông ra biển bằng cửa Đề Gi. Còn đầm Thị Nại [1] ở phía Đông Nam của tỉnh, trải dài từ cực Bắc huyện Tuy Phước đến thành phố Qui Nhơn. Đầm này không những lớn nhất tỉnh mà còn có tầm quan trọng bậc nhất về mặt lịch sử, địa lý, phong thủy, quân sự, kinh tế, thắng cảnh... nên ca dao miền này có câu:

Bình Định có hòn Vọng Phu
Có đầm Thị Nại, có Cù lao Xanh.

image001 Custom
H 1: Bản đồ do Trung Tâm Kỷ Thuật, Dịch vụ Địa Chánh xuất bản tháng 7 năm 2003.

I - VÀI NÉT PHÁC HỌA

Nhìn chung, đầm Thị Nại giống hình trái bầu, đầu hướng về Bắc và thon dần ở đoạn xã Phước Sơn, rồi thắt lại ở đoạn xã Phước Hòa, Phước Thắng tựa như cái cuống bầu. Sông Côn từ hướng Tây chảy xuống, có hai nhánh đổ nước vào đầm Thị Nại. Nhánh Bắc tiếp giáp với đầu cuống ở thôn An Lợi ( xã Phước Thắng), nhánh Nam nối với thân cuống qua cửa sông Gò Bồi (xã Phước Hoà). Các nhánh sông ấy giống như những chiếc râu tua tủa níu chặt trái bầu khổng lồ vào đất liền.

Nhưng trái bầu ấy, bên phía bờ Tây thì tạo hoá nặn hình bầu tượng, vì từ thôn Lộc Hạ (xã Phước Thuận) trở xuống Nam, bờ đầm tương đối không lồi lõm mấy nên dáng thon thả, lại chi chít những phân chi lưu của sông Côn, sông Hà Thanh như vô số chiếc lông măng mọc ra trên thân trái bầu tơ nõn nà.

Phía bờ Đông, tạo hoá lại nặn hình bầu ve, vì đang nở nang suôn sẻ ở đoạn xã Nhơn Hội bỗng có doi đất nhô ra làm lõm sâu vào thân bầu, rồi lại phình ra như một cái bướu to tướng. Do tích dấu chân ông Khổng Lồ nhoài người chụp cá hụt năm xưa, tạo thành eo và bụng cho trái bầu ve.

Phía bờ Nam có mũi Cổ Rùa và mũi Gành Hổ là hai chiếc răng nanh giao đầu che chở cho đầm Thị Nại, tựa như đỡ lấy trái bầu khổng lồ khỏi rơi tuột ra biển Đông.

Ngày nay, đầm Thị Nại có chiều dài (Bắc Nam) chừng 16 km, chiều rộng (Đông Tây) thường là từ 3 đến 4 km. Cũng có chỗ hẹp chỉ còn 500 mét (cuống bầu), có chỗ rộng đến 6 km kể cả vũng Eo Vược (bụng bầu). Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, chu vi đầm đo được 9500 trượng, tức 38 km [2] và theo tài liệu thống kê, diện tích đầm hơn 5000 mẫu tây.

image003 Custom
H 2: Đầm Thị Nại trích chụp từ bản đồ quân sự tỉnh Bình Định lập trước năm 1975 (Ảnh: Việt Thao).

II - CẢNH SẮC ĐẦM THỊ NẠI

Gần bờ phía Tây, thuộc khu vực Hưng Thạnh, ngay Tháp Đôi ngó ra, có một cụm đá, khi thủy triều lên chỉ cách mặt nước hơn 1 mét và rộng độ vài sào. Cụm đá ấy vun dần lên giống như ngọn tháp mà chóp đã bị bào mòn. Nơi đây, tụ điểm của chim bói cá, dân địa phương quen gọi là chim thầy bói, nên cũng gọi cụm đá này là đảo Tháp Thầy Bói.

Ngay tại cửa Làng Sông, do nhánh sông Tọc thuộc sông Hà Thanh chảy ra, có hai cồn cát nổi lên mặt đầm, cồn phía Bắc thuộc thôn Bình Thái, cồn phía Nam thuộc thôn Quảng Vân (Diêm Vân). Cả hai đều có tên là Bãi Nhạn vì có chim nhạn cư ngụ. Giống chim này cũng chuyên bắt cá trên đầm như chim thầy bói, nhưng lớn hơn nhiều, cánh dài và đuôi trắng.

Ngoài ra còn có đảo Cồn Chim rộng lớn nằm giữa đầm Thị Nại, ngay thôn Lộc Thượng và Vinh Quang ngó ra. Nơi đây tập hợp nhiều loại chim ăn cá.

Ngày trước, mỗi lần ghe thuyền đi qua các nơi này, chim vụt bay lên rợp cả vùng trời. Trước cảnh cát vàng, nước biếc, rừng xanh, trời trong và cánh chim trải rộng như muôn ngàn múi bông lơ lửng giữa không trung, thi sĩ Quách Tấn đã hạ vần thơ tức cảnh:

Nước biếc dờn thu hồng thúy điểm,
Cát vàng trải nắng phấn ngân phơi...
(Nước Non Bình Định)

Cảnh đầm Thị Nại về đêm, với chiếc thuyền con lênh đênh trên sóng nước, Đào Tấn 陶 進 (1845- 1907) không tả cảnh trực tiếp mà chuyển tình vào cảnh qua bài Huỳnh Giản Châu Dạ 黃 簡 舟 夜 (Đêm đi thuyền đến Huỳnh Giản):

Biển châu nhất dạ giang hồ viễn
扁 舟 一 夜 江 湖 遠
Phù thế ngô sinh ưu lạc đa
浮 世 吾 生 憂 樂 多。
Tảo dục quy canh, kim hựu lãn
早 欲 歸 耕 今 又 懶
Thương Lang cực mục phó hàm ca.
滄 浪 極 目 付 酣 歌 。
(Tiên Nghiêm Mộng Mai Ngâm Thảo)

Việt Thao phụng dịch:

Thuyền con đêm tối nước mênh mông,
Đời tớ buồn vui lắm nỗi lòng.
Về sớm cấy cày, nay lại biếng,
Sông Thương ca hát mặc tình rong.

image005 Custom
H 3: Cảnh đầm Thị Nại lúc hoàng hôn.
(Ảnh: Lê Cẩm Khoáng)

III - THỊ NẠI ĐI VÀO QUÂN SỬ

Thiên nhiên đã tạo tác khung cảnh đầm Thị Nại là thế. Con người cũng cố gắng góp phần tô điểm ít nhiều, đôi lúc làm cho cảnh sắc đẹp hơn, lộng lẫy hơn, nhưng cũng có khi khiến cho khuôn mặt đầm mang những vết tích đau thương.

Vào cuối thế kỷ thứ 10, vua Chăm [3] là Hari Varman II (988- 998), dời đô đến miền Bắc Vijaya, lập kinh thành Đồ Bàn, nay là thôn Bắc Thuận và Nam Tân (tức thôn Nam An cũ thuộc phạm vi thành, hợp nhất với Tân Ninh) thuộc xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn. Kinh đô mới có địa thế phòng thủ tốt. Ba mặt Tây, Nam, Bắc đều được núi non che chở, phía Đông là đồng bằng có núi Long Cốt (cao 43 mét) làm tiền án ngó ra đầm Thị Nại. Vì vậy, muốn chiếm Đồ Bàn phải tiến quân vào Thị Nại, yết hầu của kinh đô. Nơi đây kín đáo, có thể chứa cả ngàn chiến thuyền, thuận tiện cho việc đổ bộ cùng lúc hàng vạn quân. Bởi ưu thế đó, Thị Nại đã gắn liền với lịch sử qua những trận đánh lớn, một mất một còn. Theo Việt Sử Tân Biên và các tài liệu sử khác, ngót 10 thế kỷ qua, đầm Thị Nại ít nhất cũng đã 12 lần có mặt trong quân sử:

01 - Tháng 2 năm Kỷ Dậu (1069), Lý Thánh Tông (1054-1072) thân chinh đi đánh Champa. Từ Thăng Long, đại quân ta đi ngót 26 ngày đường biển mới đến đầm Thị Nại. Viên Tổng tư lệnh Chăm là Bố-bì-đà-la dàn trận trên bờ sông Tu Mao (một nhánh của sông Côn). Lý Thường Kiệt đánh tan lực lượng tiền phương và giết được Bố-bì-đà-la, rồi vượt thêm hai sông nữa (cũng thuộc sông Côn) để tới Đồ Bàn.

Vua Chăm là Chế Củ (Rudravarman IV), bỏ kinh đô chạy về miền Nam. Lý Thường Kiệt đem quân đuổi theo suốt một tháng trời, đến tận biên giới Chân Lạp. Vua Chăm và 5 vạn quân dân bị bắt. Tháng 7 năm ấy, Lý Thánh Tông về đến Thăng Long với ca khúc khải hoàn, giải theo vua Chăm và quyến thuộc. Sau Chế Củ dâng 3 châu: Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh [4] mới được tha cho về nước. Đây là lần đầu tiên đầm Thị Nại có tên trong quân sử Đại Việt (大 越).

02 - Ngày 21 tháng chạp năm Giáp Thân (1284), 50 vạn quân Nguyên dưới quyền tổng chỉ huy của Thái tử Mông Cổ là Thoát Hoan, chia quân làm hai đạo: bộ binh do Thoát Hoan trực tiếp chỉ huy, tiến vào Lạng Sơn, giả tiếng mượn đường Đại Việt đi đánh Champa. Thủy quân do Toa Đô dẫn đầu, gồm 1000 chiến thuyền và 10 vạn quân, từ Quảng Châu tiến thẳng vào đầm Thị Nại của Chăm quốc. Vị trí tiền tiêu bảo vệ kinh đô Đồ Bàn là thành Thị Nại nằm bên bờ sông Gò Tháp, thuộc Nam Phái [5] sông Côn, ở địa phận xã Phước Hoà, túc trực 1 vạn quân, có trang bị voi chiến, chặn các đường hiểm yếu, không cho quân Nguyên tiến vào kinh đô. Toa Đô đánh mãi không được, đành phải bỏ Thị Nại, theo đường bộ vào Đại Việt, đến Nghệ An, rồi rút ra Bắc, định họp quân với Thoát Hoan, nhưng bị bao vây ở Tây Kết (một làng nhỏ ở bờ sông Hồng), trúng tên, bỏ thây ở chiến trường.

03 - Năm Đinh Tỵ (1377), vua Trần Duệ Tông (1373-1377) đem 12 vạn quân đi đánh Champa. Ngày 23 tháng giêng, đại quân tiến vào cửa Thị Nại, lấy đồn Thạch Kiều, chiếm động Kỳ Man (động cát ở chân núi Xuân Quang, gần Gành Ráng và Qui Hoà). Quân ta đang đắc thắng thì vua Chăm là Chế Bồng Nga giả kế trá hàng. Đại tướng Đỗ Lễ biết mưu gian của địch, can vua Duệ Tông, nhưng vua không nghe, bảo rằng: "Dụng binh quý như thần tốc. Nay nếu dừng lại không tiến, thì thực là trời cho mà không lấy, để nó lại cơ mưu khác thì hối sao kịp. Ngươi chính là hạng đàn bà." [6]. Rồi nhà vua cho tiến quân ào ạt đến Đồ Bàn. Quân Chăm phục kích sẵn ở chỗ hiểm yếu, bất thần bốn mặt giáp công, khép chặt vòng vây. Quân ta tuy đông nhưng không phòng bị, nên thua to. Vua Trần Duệ Tông tử trận, quân sĩ chết hai phần còn một, phải mở đường máu mới thoát được.

04 - Năm Canh Dần (1470), Hồng Đức nguyên niên, vua Chiêm là Trà Toàn sai sứ sang cầu viện nhà Minh, rồi cho quân ra cướp phá đất Hoá Châu. Vua Lê Thánh Tông xuống chiếu huy động 26 vạn tinh binh, và tự cầm quân chinh phạt Champa. Sau trận đại thắng ở Sa Kỳ (huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi), hạ tuần tháng 2 năm Tân Mão (1471), thủy quân ta tiến vào đầm Thị Nại. Ngày 27 tháng 2, vua Lê Thánh Tông chỉ huy đánh chiếm thành Thị Nại. Ngày 28, kinh đô Đồ Bàn của vương quốc Champa bị vây hãm, đến mồng 1 tháng 3 thì hạ thành, bắt sống Trà Toàn và hoàng gia. Từ đấy, đầm Thị Nại và cả miền đất Vijaya đến đèo Cù Mông, vĩnh viễn thuộc về Đại Việt.

05 - Đầm Thị Nại được yên ổn suốt 3 thế kỷ, đến năm Nhâm Tý (1792) xảy ra trận thủy chiến đầu tiên tại quân cảng này, giữa quân Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Nhân lúc gió mùa, Nguyễn Ánh cùng các tướng Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Trương và các tướng người Pháp là Dayot (tên Việt là Nguyễn Văn Phấn), Vannier (tức Nguyễn Văn Chấn), De Redon, D'Auray, Olivier de Capentras (tức ông Tín) đem cả binh thuyền bất thần tấn công vào Thị Nại, căn cứ hải quân quan trọng nhất của vua Thái Đức. Lợi dụng gió Nam thổi mạnh, quân Nguyễn Ánh tiến vào cửa Thị Nại tức là ở vị trí đầu ngọn gió, nên đã dùng hỏa công thiêu rụi toàn bộ binh thuyền của Tây Sơn. Tướng Tây Sơn là Đô đốc Nguyễn Thành chống cự không nổi, phải chạy lên thành Hoàng Đế tức là thành Qui Nhơn (Đồ Bàn cũ).

06 - Năm Quý Sửu (1793), cũng đợi lúc gió mùa Tây Nam thổi mạnh, thủy quân của Nguyễn Ánh ra đánh Thị Nại lần thứ hai. Thái tử Nguyễn Bảo chống cự không nổi, rút quân vào thành. Kinh đô lâm nguy, Nguyễn Nhạc phải cầu cứu Phú Xuân. Vua Quang Toản sai Phạm Công Hưng, Nguyễn Văn Huấn, Lê Trung, Ngô Văn Sở đem 17 ngàn quân và 80 thớt voi đi đường bộ. Ngoài ra còn sai Đặng Văn Chân thống lĩnh thủy quân, với 30 chiến thuyền, vào cấp cứu Qui Nhơn. Nguyễn Vương thấy viện binh quá mạnh, phải rút lui. Từ ấy, quân cảng Thị Nại và toàn bộ đất Qui Nhơn thuộc về triều đình Phú Xuân. Quang Toản giao cho Lê Trung và Nguyễn Văn Huấn ở lại giữ thành.

07 - Năm Ất Mão (1795), Nguyễn Ánh đem thủy quân ra tới Thị Nại; trong lúc Đông cung Cảnh, có Olivier chỉ huy pháo binh, từ Diên Khánh tiến quân ra Phú Yên. Quân Phú Xuân tuy bị uy hiếp cả hai mặt nhưng vẫn còn mạnh, lại gặp lúc thời tiết bất lợi nên Nguyễn Vương rút quân về.

08 - Tháng 3 năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn Vương đem đại binh ra đánh lấy Qui Nhơn, tiến quân nhiều mặt: Hậu quân Võ Tánh và Hữu quân Nguyễn Huỳnh Đức đem quân lên bộ đóng chốt ở Trúc Khê. Tiền quân Nguyễn Văn Thành, có tượng binh và pháo binh tăng cường, ra đánh lấy Phú Yên rồi tiến quân tiếp ứng cho Võ Tánh. Còn Nguyễn Vương mang thủy quân đánh thốc vào Thị Nại, có Đông Cung Cảnh mang tả quân hỗ trợ. Phú Xuân sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng vào cứu, nhưng viện binh bị quân của Nguyễn Văn Thành chặn lại ở Quảng Ngãi. Quân cảng Thị Nại và thành Qui Nhơn về tay Nguyễn Ánh. Chúa cho đổi thành Qui Nhơn là thành Bình Định để mừng ngày lấy lại đất cũ.

09 - Tháng giêng năm Canh Thân (1800), Tây Sơn mở chiến dịch phản công tại Bình Định. Hai danh tướng Phú Xuân là Trần Quang Diệu chỉ huy bộ binh vây chặt thành Bình Định, Vũ Văn Dũng mang thủy quân chiếm lại Thị Nại. Tướng nhà Nguyễn là Võ Tánh chỉ còn cách cố thủ trong thành để chờ viện binh. Chúa Nguyễn cho đại binh ra cứu, bộ binh từ Phú Yên tiến ra nhưng không thể đến gần, còn thủy quân tấn công mấy lần vẫn không vào được Thị Nại.

10 - Tháng giêng năm Tân Dậu (1801), Chúa Nguyễn đem cả đại binh do các tướng Võ Duy Nguy, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương và nhiều tướng người Pháp chỉ huy đánh vào Thị Nại. Biết không thắng được bằng vũ lực, Nguyễn Ánh dùng mưu, kếp hợp với hoả công. Chúa cho gián điệp trà trộn vào thủy quân của Tây Sơn lấy mật hiệu. Rồi nhân lúc gió thổi mạnh, Võ Duy Nghi dùng thuyền có tay chèo phóng lửa đốt thủy đồn của Tây Sơn phòng thủ ngoài cửa biển. Lê Văn Duyệt dùng thuyền lửa và thuyền có đại bác tấn công ba chiến hạm đang án ngữ hải khẩu. Lê Văn Trương, nhờ biết mật hiệu, dùng thuyền nhỏ lẻn vào Gành Hổ (Phương Mai) đốt thủy trại. Tướng Tây Sơn là Võ Văn Dũng đương chỉ huy trận tiền, thấy lửa cháy ở hậu cứ, tưởng là có nội ứng, bèn chia binh vào cứu. Nhân lúc ấy, Võ Duy Nguy cho thuyền xông vào đầm Thị Nại, bị trúng đạn chết. Lê Văn Duyệt đốc binh tiếp theo, vừa vượt khỏi tầm súng trên các đồn lũy bắn xuống thì lại gặp thuyền của Tây Sơn xông tới đánh giáp lá cà. Lợi dụng đứng trước đầu ngọn gió, Lê Văn Duyệt dùng hỏa công. Lửa cháy rợp trời, thuyền Tây Sơn bị đốt gần hết. Võ Văn Dũng bỏ Thị Nại lên bờ, hợp với Trần Quang Diệu giữ các nơi hiểm yếu. Đó là trận thủy chiến lớn nhất, đẫm máu nhất và là trận cuối cùng tại quân cảng Thị Nại trong thời kỳ nội chiến.

11 - Tháng 5 năm Ất Dậu (1885), Pháp chiếm xong kinh đô Huế, thấy Phong trào Cần Vương ở Bình Định lên mạnh, liền đem binh thuyền vào cảng Thị Nại bắn phá các đồn lũy hải quân của triều đình ta. Chúng cho quân vào cửa Làng Sông, theo nhánh sông Tọc (Bắc Phái sông Hà Thanh) tiến chiếm căn cứ của nghĩa quân Cần Vương trên núi Hàm Long (tục gọi là núi Trường Úc), cách đầm Thị Nại chừng 3 km. Nghĩa quân tuy thiệt hại nhiều nhưng cương quyết tử thủ, chống trả anh dũng. Võ Trứ (武 著), tướng lãnh Cần Vương, đã mô tả trận đánh qua bài Trường Úc Quan Thượng Hữu Cảm [7] 長 郁 關 上 有 感 (Cảm xúc viết trên ải Trường Úc):

Oanh thiên tặc pháo phá ngô doanh
轟 天 賊 砲 破 吾 營
Nghĩa sĩ huy đao thệ thủ thành.
義 士 揮 刀 誓 守 城 。
Huyết nhục cương ư đồng thiết đạn
血 肉 剛 於 銅 鐵 彈
Đan tâm khả sử quỷ thần kinh.
丹 心 可 使 鬼 神 驚。

Việt Thao dịch:

Rền trời súng giặc phá trại doanh
Nghĩa sĩ vung gươm quyết giữ thành.
Máu thịt đương đầu đồng sắt đạn
Lòng son thần quỷ khiếp lưu danh.

12 - Tướng Navarre lập kế hoạch bình định miền duyên hải Nam Trung Việt. Ngày 12 tháng 3 năm 1954 (Giáp Ngọ), ông cho mở cuộc hành quân Atlante đợt hai vào cửa biển Qui Nhơn, với lực lượng gồm 18 tàu thủy, 2 tàu đổ bộ, 4 trung đoàn thủy quân lục chiến và 1 tiểu đoàn công binh, có phi cơ, xe tăng và trọng pháo yểm trợ. Pháp thiết lập căn cứ quan trọng tại Qui Nhơn và bán đảo Phương Mai. Tàu chiến vào đầm Thị Nại, đổ quân đóng chốt ở các thôn Hội Lộc, Huỳnh Giản (phía bờ Đông); Vân Hà, Quảng Vân, Bình Thái, núi Trường Úc (phía bờ Tây); lập vành đai hỏa lực quanh Qui Nhơn, nhằm tiến chiếm tỉnh Bình Định bằng ba mặt: Thị Nại đánh lên để gặp cánh quân từ đèo An Khê đánh xuống, và từ Sông Cầu (Phú Yên) đánh ra. Nhưng thất bại, cánh quân Thị Nại phải rút về giữ Qui Nhơn.

Sóng nước đầm Thị Nại hiền lành, với triền cát trắng mịn, có ai ngờ nơi đây đã nhiều phen nhuộm đỏ máu quân thù, lẫn máu của những chiến sĩ giữ nước, và mở nước. Trường Xuyên cảm khái qua bài thơ Hoài cổ, Quách Tấn chép vào Nước Non Bình Định [8]:

Thi [9] Nại xưa kia vũng chiến trường,
Nổi chìm thế sự mấy triều vương.
Non mây còn ngát hơi binh dữ,
Biển ráng chưa tan bọt máu hường.
Nhạn Lãnh [10] sóng vờn gương đế bá
Phương Mai rừng đắp vết tang thương.
Bùi ngùi ngắm cảnh quay trông lại,
Lớp lớp xe ai rộn phố phường!

image007 Custom
H 4: Một góc phía Bắc đầm Thị Nại, nhìn từ bờ Tây tại Qui Nhơn.
(Ảnh: Việt Thao, tháng 3 năm 2002)

IV - THAY LỜI KẾT

Địa hình đầm Thị Nại có dãy Triều Châu như một con rồng, đầu là vùng núi đá Phương Mai, Gành Hổ là nanh, Mũi Mác là sừng, Eo Vược là cổ, dãy núi cát từ Giốc Ngựa đến Cách Thử là mình, và phần đuôi kéo dài vài chục cây số đến cửa Đề Gi (huyện Phù Cát). Con rồng ấy, án ngữ mặt Đông, suốt từ Bắc xuống Nam, che chở cho đầm sóng êm bể lặng, mặc cho biển Đông gào thét trong những ngày mưa bão.

Cửa Thị Nại tức cửa Qui Nhơn là một hải khẩu lý tưởng về quân sự cả thương mại, nước sâu và đủ rộng cho tàu biển vô ra. Rộng nhưng không trống trải, vì có mũi Cổ Rùa (phía nội thành Qui Nhơn), giao đầu với mũi Gành Hổ (phía ngoại thành), như hai cánh cổng trời khép lại, bảo vệ cho đầm Thị Nại vừa kín đáo vừa ấm cúng, có lợi thế cho việc phòng thủ. Các nhà phong thổ học rất đắc ý, khen là cuộc đất "thủy khẩu giao nha," mang tầm vóc địa linh nhân kiệt.

Vâng, thành phố Qui Nhơn đã ôm ấp đầm Thị Nại, tạo nên sự trù phú. Đáp lại, đầm Thị Nại đã nuôi dưỡng Qui Nhơn chóng trưởng thành. Cái duyên hội ngộ giữa hai vùng đất ấy, không những bền vững với trời biển, mà mãi mãi còn trong lòng ca dao của dân tộc, và thi sĩ Quách Tấn đã chép vào Nước Non Bình Định:

Gió Cầu Tấn trưa chiều thổi mát
Bãi Qui Nhơn mịn cát dễ đi,
Phương Mai, Gành Ráng tương tri
Ngâm câu "thủy tú sơn kỳ..." thảnh thơi.


San Jose, ngày 12- 5- 2013
ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG


GHI CHÚ

[1] Người Tàu theo âm của tiếng Chăm là Crivinaya, phiên âm ra tiếng Hán, nếu đọc theo âm Việt là Thi-lị-bì-nại, rồi người nước ta Việt hóa thành Thi Nại (trong các sách xưa), sau lại được chuyển hóa một lần nữa thành tên gọi Thị Nại cho đến ngày nay.
Và tại sao có sự chuyển hóa này? Xin thưa,
Theo các từ điển, "nại" là ruộng muối; nhưng với thổ ngữ Bình Định, tiếng "nại" chỉ dùng để gọi vùng đất chuyên làm muối nằm ven bờ Tây đầm Thị Nại, đoạn từ thôn Nhơn Ân (phía Bắc), Bình Thới, Quảng Vân, An Định, Lương Nông đến thôn Bình Thạnh (phía Nam). Thí dụ: chỗ nại, dân nại, ở nại, vùng nại, làng nại... Và người ta thường nói: "Lên nguồn xuống nại" để chỉ cho việc lên vùng núi cao ở phía Tây Bình Định, và xuống vùng ruộng muối các thôn nói trên.
Bởi vậy, từ ngữ "Thi Nại" đã Việt hoá từ lối phiên âm của Tàu, một lần nữa lại được dân chúng chuyển hoá thanh điệu thành "Thị Nại" để đặt tên cho cái đầm mà họ thường lui tới mua muối. Vả lại, ngữ âm Thị Nại thích nghi với khẩu ngữ hơn, vì dễ đọc, mà còn hợp với phương diện ngữ nghĩa nữa.

[2] Nguyên thước của ta có nhiều loại: 1 thước mộc bằng 0 mét 424 (tức 42 cm 4), 1 thước ruộng bằng 0 mét 4664 (tức 46 cm 64), 1 thước vải bằng 0 mét 636 (tức 63 cm 6). Để thống nhất về độ dài, năm 1897, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer quy định 1 thước ta bằng 0 mét 400 (tức 40 cm) và 1 trượng bằng 4 mét.

[3] Tên gọi hiện nay là Champa hay Chăm; còn có các tên khác như: Chăm Pa, Chàm, Chiêm, Chiêm Thành, Lâm Ấp, Hời (ít dùng). Người Việt quen gọi là Chàm (như: tháp Chàm, gò Chàm), hay Chiêm Thành (như: dân tộc Chiêm Thành, Chiêm quốc); người Champa gọi dân tộc họ là Chăm.

[4] Châu Bố Chánh, nay là đất các huyện: Tuyên Hoá, Quảng Trạch, Bố Trạch. Châu Địa Lý là huyện Lệ Thủy và Quảng Ninh ngày nay, đều thuộc tỉnh Quảng Bình. Châu Ma Linh, nay là huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.

[5] Nam Phái: Dòng sông Côn chảy qua khỏi thị tứ An Thái (thuộc thôn Mỹ Thạnh, xã Nhơn Phúc) chừng 500 mét rồi chia làm hai: nhánh chảy về hướng Đông Nam, gọi là Nam Phái; nhánh chảy ra hướng Đông Bắc gọi là Bắc Phái. Nhánh Nam Phái chảy chừng 1 cây số, gần tới Phụ Ngọc (Nhơn Phúc) và Quang Quang (Nhơn Khánh) lại phân đôi: một nhánh chảy vòng dọc theo phía Bắc thôn Quang Quang và hướng thẳng về Đông, gọi là Trung Phái; nhánh kia chảy vào Phụ Ngọc và thẳng hướng Đông Nam chừng vài cây số nữa rồi xuôi về Đông vẫn mang tên gọi là Nam Phái.

[6] Quốc Sử Viện Triều Lê; Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, bản Chính Hòa, khắc in năm 1697, Hoàng Văn Lâu dịch, quyển 2 (Hà Nội, nxb Khoa Học Xã Hội, 1993); trang 161.

[7] Căn cứ vào bản phiên âm trong tập "Thơ Ca Yêu Nước Và Cách Mạng Nghĩa Bình, Tập I," trang 166, chúng tôi tạm phục chế nguyên tác bài thơ bằng chữ Nho, có thể không khỏi sai lầm, kính mong các bậc cao minh chỉ bảo cho.

[8] Quách Tấn; Nước Non Bình Định (Sài Gòn, nxb Nam Cường, 1967); trang trang 196.

[9] Quách Tấn căn cứ vào sách cổ, chép là "Thi Nại" (chữ Thi không dấu nặng). Nhưng địa danh này đã có sự chuyển hóa về ngữ học, từ tên gọi Thi Nại (chữ "Thi" không dấu nặng) đến Thị Nại (chữ "Thị" có dấu nặng), và chuyển âm từ lúc nào?
Theo Đỗ Bang và Nguyễn Tấn Hiểu, Lịch Sử Thành Phố Quy Nhơn, cho rằng vào đầu thế kỷ 20 mới có sự chuyển hóa thanh điệu "Thi Nại" (không dấu nặng) thành "Thị Nại" (có dấu nặng). Ông viết: "Có thể, từ đó địa danh Thi Nại vào đầu thế kỷ XX này đã chuyển âm thành Thị Nại. Vì theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí, bản Duy Tân (1910) vẫn dùng tên Thi Nại để chỉ cửa Tấn này, cũng như xác định về núi Triều Châu, đầm Hải Hạc (tức đầm Thi Nại), chùa Long Khánh..." (trang 156)
Nếu chỉ căn cứ vào Đại Nam Nhất Thống Chí, bản Duy Tân (1910) mà xác định khoảng thời gian chuyển âm ra Thị Nại là đầu thế kỷ 20, e rằng thời điểm đó quá muộn. Vì thói thường ở nước ta "phép vua thua lệ làng", mặc cho sách vở Quốc Sử Quán và Châu Bản Triều Nguyễn vẫn tiếp tục gọi là "Thi Nại" nhưng ở địa phương và đại chúng đã chuyển hóa từ lâu rồi.
Thật vậy, hiện tượng chuyển hóa phải có thời gian để phổ cập trong dân chúng, trước khi bài Vè Cát Lái Hát Ra (176 câu) ra đời. Bởi trong bài ấy, có câu 146, đề cập đến tên mới của đầm:
Đi cho thấu chữ Qui Nhơn,
Giáp đầm Thị Nại hãy còn sử xanh.
(Ca Dao Nam Trung Bộ, trang 452)
Tương truyền, tác giả bài vè là La Xuân Kiều, người huyện Phù Ly (nay là huyện Phù Mỹ và Phù Cát), trấn Bình Định. Ông là một trong Lục Kỳ Sĩ thời Tây Sơn, không chịu thuần phục Gia Long, nên bỏ quê quán theo nghiệp ghe bầu, vận tải hàng hóa đường biển, từ Nam ra Bắc và ngược lại.
Dù tác giả là ai, chỉ căn cứ vào nội dung của bài vè với các địa danh xưa, những từ ngữ cổ, lối sinh hoạt thương mại và cuộc hải trình, có thể đoán được bài vè xuất hiện đầu thế kỷ 19 hay trước nữa. Như vậy, hiện tượng chuyển âm từ "Thi Nại" (chữ Thi không dấu nặng) thành "Thị Nại" (chữ Thị có dấu nặng) phải xảy ra khoảng đầu thế kỷ 19.

[10] Nhạn Lãnh tức Nhạn Châu Lãnh, tên của vùng núi tại Gành Ráng (Qui Nhơn).

TÀI LIỆU THAM KHẢO

- DƯƠNG KINH QUỐC; Việt Nam Những Sự Kiện Lịch Sử, bản in lần thứ 2, Tập 1 (1858- 1918) và tập 2 (1919- 1945); Hà Nội, nxb Giáo Dục, 2001.
- ĐÀO TẤN; Tiên Nghiêm Mộng Mai Ngâm Thảo, Nữ nhi Trúc Tiên, Chi Tiên đồng ký lục, Tịnh Ba phụng sao; Sài Gòn, tài liệu chép tay, 1964.
- ĐÀO VĂN & 2 tgk sưu tầm và biên soạn; Thơ Ca Yêu Nước Và Cách Mạng Nghĩa Bình, Tập 1; Qui Nhơn, Ty Văn Hóa và Thông Tin Nghĩa Bình xuất bản, 1981.
- ĐỖ BANG và NGUYỄN TẤN HIỂU; Lịch Sử Thành Phố Qui Nhơn; Huế, nxb Thuận Hóa, 1998.
- NGUYỄN ĐÌNH ĐẦU; Nghiên Cứu Địa Bạ Triều Nguyễn – Bình Định, 3 tập; Sài Gòn, nxb TP/HCM, 1996.
- PHẠM VĂN SƠN; Việt Sử Tân Biên, bộ 7 quyển; Sài Gòn, Tác giả xuất bản, 1959-1972.
- PHAN KHOANG; Xứ Đàng Trong 1558- 1777; Sài Gòn, Khai Trí, 1970.
- QUÁCH TẤN; Nước Non Bình Định; Sài Gòn, nxb Nam Cường, 1967.
- QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN; Đại Nam Nhất Thống Chí, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, tập 3; Huế, nxb Thuận Hóa, 1992.
- QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN; Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, Nguyễn Ngọc Tĩnh dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, tập 1; Hà Nội, nxb Sử Học, 1962.
- . . . . . . . . . . . . . . . . . . . ; Đại Nam Thực Lục Chính Biên – Đệ Nhất kỷ, Nguyễn Ngọc Tĩnh dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, tập 2; Hà Nội, nxb Sử Học, 1963.
- QUỐC SỬ VIỆN TRIỀU LÊ; Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, bản Chính Hòa, khắc in năm 1697, 27 quyển; bản dịch ấn hành thành 4 tập: Ngô Đức Thọ dịch Tập 1 (10 quyển), Hoàng Văn Lâu dịch Tập 2 (9 quyển), Hoàng Văn Lâu và Ngô Thế Long dịch Tập 3 (8 quyển), Tập 4 sao chụp nguyên văn chữ Nho; Hà Nội, nxb Khoa Học Xã Hội, 1993.
- TRẦN TRỌNG KIM; Việt Nam Sử Lược, in lần thứ 7; Sài Gòn, nxb Tân Việt, 1964.


Nguồn: Đặc San Liên Trường Qui Nhơn, 2013.

Thêm bình luận