Khoảng chín giờ rưỡi tối ngày 9/6/2008 (nhằm mồng 6/5 năm Mậu Tý), chuông điện thoại vừa reo hai tiếng, tôi nhắc máy lên, tiếng Châu - em tôi - từ bên Úc:
- Anh ơi... Út Sương mới báo ba chết rồi!
Không tin vào tai mình, tôi hỏi gặng lại:- Hả... Mày nói sao?
- Ba... Ba... chế... ế... ết rồi... Anh ơi... ! - Em tôi nói qua tiếng nấc, tôi nghe rõ tiếng khóc của nó.
Bàng hoàng sửng sốt, giọng run run, tôi hét lên:
- Ba chết rồi... Trời ơi... Ba chết rồi... !
Cali - con gái tôi ngồi học kế đó - tưởng tôi nói giỡn nên nó tỉnh bơ. Tôi chạy qua phòng bếp, nói lớn:
- Ba chết rồi... Em ơi... Ba chết rồi... !
Vợ tôi cũng sửng sốt:
- Ba chết rồi sao... Trời ơi... Ba chết rồi sao?
Như đã hiểu chuyện, Cali chạy vào ôm hai vợ chồng tôi, im lặng, rồi phone gấp báo tin quá đau buồn này cho anh Ruby của nó trên nhà trọ gần trường học.
Tôi phone qua Đức báo cho Vĩnh - em kế tôi - thì em nói đã biết tin này rồi. Tôi lại phone tiếp về bên nhà, giọng Út Sương qua tiếng khóc nức nở nghẹn ngào:
- Anh ơi... Ba chết rồi... Chết lúc mười giờ bốn lăm phút sáng nay.
Tôi cũng không cầm được nước mắt:
- Trời ơi... Ba chết rồi... Anh đã hứa với ba là sang năm, anh, Vĩnh và Châu sẽ về mừng thượng thọ ba tám mươi lăm tuổi mà. Trời ơi... Sao không chờ tụi con... Ba ơi... !
Tôi tắt phone, lòng bùi ngùi lắm, buồn lắm. Bùi ngùi và buồn không kém như lúc má tôi qua đời vì xơ gan năm 93 khi tôi còn ở bên nhà. Lát sau, bồn chồn quá, tôi lại phone về bển tuy chẳng biết nói gì thêm ngoài những lời dặn dò các anh chị em bên đó. Lần này giọng Út Sương bình tĩnh hơn:
- Anh à... ! Chú Vị và cậu Lý đã xuống đây rồi. Chú và cậu đều nói mai táng ba vào mồng 8/5 âm lịch (tức hai ngày nữa) là tốt nhứt, anh liệu có về kịp để nhìn ba lần cuối không?
Tôi lặng người, rùng mình, cảm thấy xương sống mình chợt lạnh lên:
- Không kịp... Không kịp rồi... Út ơi... !
- Vậy thì mình sẽ xin dời lễ mai táng vào mồng mười để chờ anh về, được không anh?
Giọng tôi bình tĩnh lại:
- Đừng... Đừng đổi... Không cần đổi, em... ! Đã chọn được ngày tốt thì cứ tiến hành đi. Nếu dời đến ngày kém tốt hơn, sau này anh chị em con cháu mình lỡ gặp chuyện gì không hay thì anh sẽ ân hận lắm đó... Nghe anh đi... Đó là phong tục của người mình, mình phải giữ. Em nói lại với chú với cậu như vậy nghen!
Tối hôm đó đêm qua quá chậm, tôi không sao ngủ được, cứ trằn trọc vì nhớ ba rất nhiều, nhớ nhiều lắm. Hình ảnh và những kỷ niệm về ba cứ quay cuồng trước mắt tôi. Tôi mong sao trời mau sáng để thu xếp kịp về bên nhà nhìn ba lần cuối, nhưng đêm thì cứ dài ra thăm thẳm. Tôi đã từng thức khuya và nếm mùi đêm dài nó hành hạ mình như thế nào rồi, nhưng sao nay đêm như dài vô tận. Nằm thao thức mãi, tôi đếm từng phút từng khắc chầm chậm trôi qua. Tôi nhắm mắt cố dỗ giấc ngủ, chốc chốc lại mở mắt nhìn đồng hồ, cái kim đồng hồ như chẳng nhích thêm chút nào, lòng tôi nôn nao vô cùng. Tôi lại miên man nghĩ về ba và các anh em các cháu của tôi ở bên nhà.
Hôm sau, trên đường đến sở làm, đầu óc tôi khi thì quay cuồng, khi thì trống rỗng khô khốc đi. Tôi trình bày với supervisor về việc ba tôi qua đời và xin nghỉ được ba tuần. May quá, tôi mua được vé máy bay, bay ngay khuya nay và visa thì sẽ được cấp tại sân bay Tân Sơn Nhất. Vì phải bay gấp nên hành lý tôi đem theo sơ sài thôi, một cái va li kéo tay nhẹ hìu và một cái ba lô. Và tôi lo xa, trước khi ra sân bay Los Angeles, tôi phone về Saigon nhờ Chi - em vợ tôi - mua trước cho tôi chiếc vé bay tiếp về Quy Nhơn vào ngay chiều ngày11/6 hay hoặc sáng ngày 12/6 (VN) cũng được, nghĩa là càng sớm càng tốt.
Bay từ Los Angeles quá cảnh ở Hong Kong, nghỉ tại đây chừng hai tiếng đồng hồ rồi bay tiếp về Việt Nam, gần trưa thì đến Tân Sơn Nhất. Chuyến bay chừng hai mươi tiếng đồng hồ quá dài quá lâu này khiến tôi mệt mỏi vô cùng. Tôi không sao ngủ được vì thương tiếc ba và cứ miên man suy nghĩ những chuyện bên nhà. Lâu lâu tôi lại check trên màn ảnh nhỏ ở lưng ghế trước xem mình đã bay tới đâu, nhưng đường bay sao vẫn cứ thăm thẳm, sao vẫn cứ hun hút. Những kỷ niệm và hình ảnh người thân bên nhà cứ chập chờn khi hiện khi ẩn trước mắt tôi.
Từ sân bay, đón tôi về nhà, Chi cho biết là không mua được vé bay tiếp về quê theo những ngày tôi muốn. Và ngay chiều hôm đó tôi liền đi xe tốc hành cao cấp cùng với người bạn hàng xóm tình cờ cũng về quê cùng chuyến xe này. Tôi lại bị thêm một đêm không ngủ suốt chặng đường dài gần bảy trăm cây số từ Saigon về Quy Nhơn. Người bạn bên cạnh sao dễ ngủ quá, mới nói chuyện được mấy câu thì bạn ấy đã ngáy ngon lành rồi. Sáng ngày 12/6 tôi về đến nhà. Út Sương đến tận xe đón tôi với nước mắt ràn rụa trên gương mặt nhiều đêm mất ngủ hốc hác, thiệt tội nghiệp. Tôi xúc động lắm nhưng cố nén lòng, không cho nước mắt tuôn trào, tôi khóc thầm trong lòng như đã khóc thầm khi má tôi qua đời. Ba tôi đã được di quan mai táng lúc tám giờ sáng hôm qua rồi. Vậy là tôi về trễ, không kịp nhìn ba lần cuối và tiễn ba ra nghĩa trang, lòng tôi quặn thắt đau như cắt. Anh chị em và các cháu tôi ở Saigon đã về đông đủ vào sáng sớm sau ngày ba tôi qua đời. Châu ở Úc sẽ về chiều mai. Còn Vĩnh ở Đức thì không về được vì bận việc cuối năm của nhà trường.
Không khí gia đình tôi lúc này trầm buồn lắm. Chúng tôi quây quần bên nhau ở bộ sofa và trên chiếc đi văng để chia sẻ nhau nỗi đau, đau nhứt trong đời. Cạnh đó, bên cửa sổ là bàn thờ ba tôi với ánh sáng cặp đèn cầy lấp loáng và khói nhang lảng bảng. Giữa bàn là di ảnh ba với nụ cười hiền hòa như đang ngắm nhìn và hài lòng khi thấy con cháu mình đã tụ về gần như đông đủ. Nhìn chăm chăm vào di ảnh ba lòng tôi lắng xuống. Chợt tôi buột miệng:
- Trời ơi... Ba đó con đây mà sao nghìn trùng xa cách!
Tôi không cầm được nước mắt, môi mấp máy nhưng chẳng thốt lên được lời nào. Anh hai tôi bóp chặt vai tôi, vỗ vỗ, thở ra, giọng chùng xuống:
- Tao biết... Tao biết mày thương ba lắm vì mày đã xa ba đến mười mấy năm rồi. Anh chị và các em các cháu ở đây cũng thương tiếc ba lắm chớ.
Từ nay anh tôi gánh vai "quyền huynh thế phụ", tôi xin phép anh để được thọ tang ba. Tôi mặc áo quần tang và chít khăn tang trắng toát. Trước bàn thờ ba, tôi thẫn thờ thắp ba nén nhang, môi mấp máy khấn vái ba cùng lúc với hai hàng nước mắt tuôn trào:
- Thưa ba... Xin lỗi ba... Con đã chừng này tuổi rồi mà vẫn chưa tròn bổn phận với ba má và gia đình. Xin ba tha lỗi cho con...
Rồi tôi sì sụp quỳ lạy ba không biết bao nhiêu lần. Tôi khấn tiếp:
- Chúng con kính cầu mong ba sớm về nơi tiên cảnh... Xin ba phù hộ cho anh chị em con lúc nào cũng may mắn và trên thuận dưới hòa dù gặp hoàn cảnh nào...
Tôi chỉ khấn được có thế rồi nghẹn lời. Tôi thấy ba vẫn nhìn tôi với ánh mắt nụ cười thiệt là hiền hòa và bao dung. Vậy là ba đã nhận lời khấn cầu của chúng con rồi, phải không? Chúng con xin cám ơn ba. Tôi nghĩ, xin ba phù hộ cho anh chị em tôi lúc nào cũng trên thuận dưới hòa là đủ lắm rồi. Tôi không cầu xin lắm bạc nhiều tiền làm chi, và cũng không cầu xin nhà cao cửa rộng làm chi, vì những thứ ấy thường thì có đó rồi mất đó. Chỉ có trên thuận dưới hòa là có và còn tất cả.
Đứng trước bàn thờ ba hồi lâu tôi mới để ý thấy xung quanh bàn thờ có rất nhiều nhang đèn, nhiều vòng hoa phúng điếu và quanh tường treo nhiều bức liễn phúng điếu với những dòng "Vãng Du Tiên Cảnh", "Về Miền Cực Lạc", "Thành Kính Phân Ưu", "Về Miền Miên Viễn"... do các bác bạn hàng năm xưa, bà con thân hữu hàng xóm của ba má tôi, do bạn bè cũ mới thời đi học, sinh hoạt hướng đạo, thời lính tráng, thời "mưu sinh chạy gạo cứu đói từ 75"... của anh chị em và các cháu đem đến phúng điếu. Những phẩm vật này nhiều như vậy là do ba tôi có rất nhiều bạn bè nhờ tính tình xuề xòa hiền hòa, lúc nào cũng vui vẻ tay bắt mặt mừng, khiêm tốn, không đố kỵ và tranh hơn tranh thua với ai, lúc nào cũng "chín bỏ làm mười"... Đó là những đức tính của ba mà đến giờ anh chị em tôi vẫn chưa học được. Nhớ lại năm 93, đám tang của má đã lớn, nay, đám tang của ba lại lớn hơn. Một vài người bạn nói nhỏ với tôi "Vậy là phúc đức lắm", tôi bùi ngùi đáp lời cám ơn các bạn ấy.
Tội nghiệp, những buổi cúng giỗ ba, vợ chồng em Tuyết đều lo thức ăn chay. Nó nói, dùng thức ăn chay thì hương hồn ba sẽ luôn được trong sạch thanh thản và nhẹ nhàng sớm về miền cực lạc.
Vài tháng trước ngày qua đời, ba thường bắc ghế ngồi nhìn dòng người dòng xe xuôi ngược trên đường phố chính trước nhà mình. Trước 75 đây là khu thương mại sầm uất nhộn nhịp nhứt của thành phố này mà nay lại thưa thớt kém nhộn nhịp đi nhiều. Tôi nghĩ, trước sự thay đổi lớn lao này thế nào ba cũng buồn lắm khi nhớ đến một thời hưng thịnh của khu phố và một thời ăn nên làm ra của gia đình. Có lần thấy một chiếc xe đạp chạy bằng điện chạy qua, ba nói với mấy em tôi là ba muốn có một chiếc xe như vậy để chiều chiều ba cưỡi đi dạo mát hoặc đến thăm các bạn mình. Các em tôi sợ ba cưỡi xe lỡ rủi té ngã ở đâu đó làm sao biết được, nên cứ lần lừa hẹn rày hẹn mai. Đó chỉ là mong muốn nhỏ nhoi cuối đời của ba thôi, vậy mà cũng không được toại nguyện. Thấy mà thương cho ba quá!
* * *