Trang thông tin liên lạc của cựu Giáo Sư và học sinh Trung Học Cường Để Qui Nhơn

Trang Facebook của cuongde.org

  • NhaGiuXe1200
  • hinhCu 1200
  • CD4 1200
  • DaiThinhDuong1200

Thân mến gởi đến các bạn lớp tôi (1960 – 1967).

Hằng năm, cứ vào dịp gần Tết Ta thì quý đồng hương, quý thầy cô và các anh chị em cựu học sinh chúng ta lại nhận được từ Ban Biên Tập Đặc San Cường Để - Nữ Trung Học, khi thì Thiệp Chúc Tết khi thì Thư Chúc Tết. Theo tôi thì, đây là một việc làm rất đáng trân quý, tuy đơn giản nhưng lại gói ghém nhiều lắm cái tình cái nghĩa của chúng ta với nhau trong đó.

Cùng với lời Chúc Tết rất truyền thống của Thư Chúc Tết năm nay, chúng ta lại được gợi ý về chủ đề của Đặc San năm 2011 này, đó là Ngày Đó Chúng Mình. Cái chủ đề nghe sao mà... dễ thương quá. Nó làm cho tôi nhớ đến nhạc phẩm Ngày Đó Chúng Mình thật tình tứ và lãng mạn của nhạc sĩ Phạm Duy:

"Ngày đó có em đi nhẹ vào đời
và mang theo trăng sao đến với lời thơ nuối.
Ngày đó có anh mơ lại mộng ngời
và se tơ kết tóc – giam em vào lòng thôi"

Mãi miên man thả hồn "mộng du" với dòng nhạc này, tôi thoáng nghĩ (xin lỗi) là "dễ ăn" lắm, vì "chúng mình là... chúng mình" chớ còn ai vô đây nữa. Vậy mà loay hoay cả nửa tháng trời mà tôi chưa đặt được một chữ một dòng đầu tiên nào cho bài viết này. Vì tôi cứ nghĩ "chúng mình chỉ có nghĩa là... tôi với nàng" thì dễ như... ăn kẹo nougat mà thôi. Sau, nghĩ kỹ lại, tôi mới vỡ lẽ ra "chúng mình ở đây có nghĩa là bạn đồng môn, là bạn học với nhau" đó. Nên thiệt khó cho tôi là làm sao kể đủ, kể hết được các bạn cũ mà chúng tôi đã từng cùng nhau mài đũng quần suốt mấy năm trời trên ghế nhà trường.

May quá, sau Tết vài ngày, thì Hà Kim Huệ (em của Hà Vang - bạn học của tôi) gởi cho tôi ba tấm hình với vài dòng ngăn ngắn vui vui:

"Gởi anh mấy tấm hình ngày xưa tình cờ em có được trong album lần về VN 2005. Lớp Đệ Ngũ 3, ngày 5 tháng 2 năm 1963... Quên hỏi anh, có nhớ, có nhận ra "chị" nào trong này không vậy, hihihi... Chọc anh chút chơi, thật ra nhìn hình lúc xưa của mấy anh cũng không khác mấy phải không?".

- Trời đất... Ba tấm hình cũ... Ba tấm hình cũ... Quý lắm đó Huệ! Cám ơn em nhiều lắm đó... Huệ em... Anh nhận ra tới... sáu chị luôn đó nghen. Huệ ghẹo anh cho vui vậy thôi, chớ bốn-mươi-tám năm rồi, sao mà "không khác mấy" cho được...



Vậy là qua vài tấm hình cũ rất quý này, tôi đang "có trong tay" gần năm chục người bạn học cũ. Coi kìa... Họ đang cười tươi với tôi, những nụ cười thật hồn nhiên, cái hồn nhiên của tuổi mười-lăm mười-ba đó mà. Bây giờ, đố ai... mua được!?

Nhìn từng tấm hình, tôi bồi hồi ngắm thiệt kỹ lại từng khuôn mặt quá thân thương dạo ấy. Nhưng cũng không khỏi bùi ngùi khi nhớ lại trong số bạn bè ấy có kẻ mất người còn.

Xin thưa cùng quý bạn, vì trí nhớ tôi bây giờ bị xói mòn nhiều lắm, nên sẽ có không ít những điều thiếu sót, không ít những điều không đúng, lại càng không thể nói về một vài bạn có mặt trong hình vì tôi không còn nhớ tên, mà tôi sẽ kể lại dưới đây, rất mong quý bạn thông cảm mà bỏ qua cho. Và xin cứ coi đây là một bài viết vui vui thôi chớ chẳng phải là một... "bảng phong thần" gì hết.

Năm 1960 trung học công lập Cường Để đã dang rộng đôi tay đón nhận chúng tôi, những con chim non ở Quy Nhơn, từ các quận xã xa xôi và từ cả các tỉnh lân cận, để dạy dỗ, truyền đạt Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín cho chúng tôi làm hàng trang vào đời.

Năm đầu, chúng tôi quy tụ lại với nhau dưới dãy lớp mái tranh vách đất bốn phòng - Thất Một, Thất Hai, Thất Ba và Thất Tư. Lớp chúng tôi là Đệ Thất Ba với gần năm-mươi mái đầu xanh mà phần đông hãy còn ngơ ngác lắm, nhưng chúng tôi cũng làm quen với nhau rất nhanh.

Tôi xin được "nhớ đâu nói đó" chẳng theo thứ tự nào hết vì bộ nhớ tôi có vẻ "lộn xộn" lắm rồi.

Vậy thì "Schoolgirl, First", tôi xin nói về các chị bạn học nhu mì nhủ mỉ của lớp tôi trước. Nói chung, các chị trong lớp tôi thì "mỗi người mỗi vẻ, mười phân vẹn mười".

Cường Để 1960-1967
  
Lương Thị Lệ Cúc có bước đi nhẹ nhàng khoan thai dáng dấp như cô giáo, quả vậy chị đã là Giáo Sư Việt Văn của Nữ Trung Học Nha Trang một thời. Và chị có nụ cười không nghe tiếng nhưng thật tươi. Nếu trong lớp có anh nào "lỡ" làm chị giận thì chị nghiêm nét mặt lại, không thèm cười nữa mà cũng chẳng nói tiếng nào cho đến khi tan học. Cách nay chừng sáu / bảy năm chị đã thay được gan và hiện đang sống rất hạnh phúc với chồng con ở Canada.

Nguyễn Thị Hoa tương đối "tròn trịa" nhất lớp nên đám con trai trong lớp rỉ tai nhau đặt cho chỉ cái hỗn danh (xin lỗi nói lén chị) là... "khu trù mật". Chị khá vui tính. Sau khi lấy chồng, chị về xứ chồng ở Đà Nẵng làm ăn sinh sống tại đây luôn đến giờ; và từ đấy giọng nói của chị đã lai hẵn giọng Quảng Nam. Năm 1991 tôi ra Đà Nẵng để làm hồ sơ xuất cảnh và có tá túc tại nhà ảnh chỉ vài hôm.

Lê Thị Lệ Huyền là cô gái miền sông Hương núi Ngự mới nhập vô Đệ Ngũ 3 này rồi học tiếp Đệ Tứ 3 sau đó về lại Huế. Biết có chàng nào... ngơ ngác ngẩn ngơ không!?. Chỉ là em của Giáo Sư Lê Thị Ngọc Cầu, nhà ở đường Cường Đề, ngay sau lưng trường Cường Để Cũ, chỉ cần bước qua (hay chun qua?) hàng rào là đến trường rồi, sướng thiệt! Do có mái tóc thề nên Ngô Đăng Tình mới đặt là "Huyền Tóc Thề".

Nguyễn Thị Hưởng quê ở Bồng Sơn (?), có nước da trắng như... cơm dừa. Năm Đệ Ngũ, Hưởng đứng trước lớp khóc thút thít, xúc động nói lời chia tay cùng thầy cô và bạn bè để đi... lấy chồng. Một tuần sau, Hưởng trở vô... học lại. Thiệt... có trời mới hiểu nổi thôi!

Nguyễn Thị Hồng hơi... bự con, có nước da trắng như... bông gòn. Hồng là dân Sa Đéc nên các bạn đặt là "Hồng Sa Đéc". Hồng đúng là dân Nam Bộ "chăm phần chăm", "nghĩ sao nói dzậy... có sao nói dzậy... tui hổng giỡn à nhen...".

Đoàn Thị Lãm cũng khá vui tính, thỉnh thoảng có "hờn mát" chút đỉnh, mà cũng rất dễ quên ba cái chuyện bực mình từ mấy tay bợm quậy trong lớp. Chị thành hôn với người bạn trong lớp là Trần Tư Cung, hai người hiện ở Garden Grove. Mấy năm nay chị buồn vì sức khỏe suy giảm nên không muốn gặp ai. Chúng tôi định bụng là sẽ bất ngờ đến bấm chuông nhà chị rồi vô thăm luôn, hy vọng lúc ấy chị sẽ không thể "lánh mặt" được.

Bùi Thị Kim Lan quả là một "Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ" chính hiệu. Hồi năm Đệ Tứ vì chỉ thường viết tắt tên mình trên giấy bài tập là Bùi T. K. Lan nên Giáo Sư Đinh Văn Hiền gọi vui tên chỉ là Bùi Tê Ka Lan. Tôi nhớ, trong một buổi đại nhạc hội có bán vé của trường Cường Để mình tại hội trường Quy Nhơn, Kim Lan cùng với Thương Hoa song ca bài Thương Về Xứ Huế của Minh Kỳ:

"Mây vương khói chiều Xứ Huế đẹp yêu kiều
Ngơ ngẩn lòng du khách những chiều xưa
Hương Giang lững lờ, trăng nước vờn đôi bờ
Câu hò vọng xa đưa khúc buồn mơ... "

Thỉnh thoảng chị cũng có thơ đăng trong ĐS CĐ – NTH và ĐS Liên Trường Quy Nhơn với bút hiệu là Thi Lan. Vợ chồng anh chị đang sống yên vui nhàn nhã ở San Diego.

Nguyễn Thị Nhung "nhí con" nhất trong số các chị trong lớp. Nhung cũng là cô gái miền sông Hương núi Ngự nhưng không quá khép kín như mấy cô khác. Chị vui tính lắm, lúc nào cũng cười nói tự nhiện, không kiểu không cách gì hết. Tôi mến chị ở điểm này. Nhung đang ở Los Angeles cách tôi chừng ba-mươi phút lái xe.

Và, bây giờ thì đến "Schoolboy, Second".

Đỗ Đình Đồng, người Gò Bồi, thi vào Đệ Thất đậu thủ khoa. Đồng thường đội chiếc mũ rộng vành của hướng đạo trông như một đạo sĩ. Xong chương trình Đệ Nhị Cấp, Đồng theo học Đại Học Vạn Hạnh, sau đó theo con đường tu tập, nghe đâu Đồng hiện giờ là một Thiền Sư. Tôi có cuốn Góp Nhặt Cát Đá, sách Thiền do Đồng dịch từ Nhật Ngữ. Cuốn sách đó của tôi đã lạc mất đâu rồi.

Dân gian có câu "Nhứt quỷ nhì ma thứ ba... tụi tôi" nên lớp tôi cũng có những "tay quậy" tầm cỡ lắm. Nay tôi xin kể lại như là những kỷ niệm nho nhỏ cho vui thôi chớ chẳng có ác ý "bêu xấu" gì đâu, mong các bạn... "xuề xòa" cho.

Lý Văn Nay là một trong vài anh lớn tuổi nhứt trong lớp, ảnh có bộ mặt thấy "sao sao" đó nên bị gán cho cái hỗn danh là... Tề Thiên. "Tụi bay chọc tao là Tề Thiên hã! Dzậy thì bữa nào tao sẽ cho... "Na Tra" xuất hiện cho biết!". Và, nhân lúc lớp học ồn ào lộn xộn trong giờ học Hán Tự của Cụ Linh, ảnh cho... "Na Tra" xuất hiện thiệt, cứ đi lên đi xuống tỉnh bơ giữa lớp. Đám con trai thì vỗ tay đập bàn la hét om sòm, còn đám con gái thì cúi gằm mặt xuống bàn, nín khe, chắc là giận lắm.

Võ Bá Trác có khiếu học và viết Hán Tự, nên mỗi lần làm bài tập hay thi môn này thì tụi tôi góp giấy carbon lại đưa cho ảnh để ảnh... "đồ" cho, nên Võ Bá Trác được kêu là "Thầy... đồ". Nhờ vậy mà đứa nào cũng được mười-tám / hai-mươi điểm hết, Cụ Linh khen cả lớp quá trời.

Trong một bài tập Anh Ngữ có câu hỏi: "What's your name?", Lý Văn Nay trả lời: "My name is Lý Văn Xưa", còn Võ Bá Trác thì trả lời: "My name is Milty". Chấm bài xong, khi trả bài thầy Nguyễn Túc nói: "Bài của hai người này khá, nhưng lại đùa giỡn trong này, nên tôi bớt vài điểm".

Không biết xuất phát từ đâu mà cả trường, từ Cường Để Cũ đến Cường Để Mới đều truyền khẩu nhau câu: "Ông Sở sử ông Viễn vẽ hán(g) Cụ Linh", có nghĩa là "Thầy Sở dạy Sử, Thầy Viễn dạy vẽ, Cụ Linh dạy Hán Tự". Niên khóa sau, cô cháu ngoại của Cụ tên là Phúc hơi... phốp pháp, xinh gái vô học Đệ Thất, nên "đám bợm" tụi tôi giành nhau gọi Cụ là... ông ngoại.

Hồng Quốc Anh làm Lớp Trưởng từ Đệ Thất lên tới Đệ Tứ. Cái ông Lớp Trưởng gì mà... hiền như Bụt, chẳng "khè" được ai. Ấy vậy mà xông xáo tháo vát lắm, đi cắm trại hay du ngoạn thì ảnh luôn luôn "đi đầu", hăng hái lắm. Cái "máu hướng đạo" có khác! Bây giờ gặp ảnh ở Nam Cali này tôi gọi ảnh là... "Lớp Trưởng Muôn Năm". Hồi học tiểu học Nguyễn Huệ, trong kỳ thi tiếng hát học trò toàn thị xã tại sân vận động, ảnh đoạt giải nhất với bài Lối Về Xóm Nhỏ của Trịnh Hưng

"Về thôn xưa ta hát khúc hoan ca
Ngọt bông lúa tình quê thêm đậm đà
Dào dạt bao niềm thương trong mái lá ... ... ... "

Giống như Nguyễn Hân, hai anh em Nguyễn Thông và Nguyễn Văn Huệ cũng hiền khô. Nguyễn Kim Hoàng đang nối nghiệp thân phụ bằng nghề cân niềng sửa xe đạp ở góc Phan Bội Châu – Mai Xuân Thưởng. Bùi Cảnh lái "xe dân biểu" (xe xích lô) từ nhiều năm nay. Nhớ lâu rồi, vào một buổi sáng nọ, tôi đang mở cửa dọn hàng thì thấy Nguyễn Luận đạp xe qua, tôi mời Luận vô nhà uống nước trà thì Luận dừng xe lắc đầu: "Cám ơn... Để bữa khác nghen". Tôi lại mời tiếp: "Thì vô uống chút rồi đi mà". Luận lại lắc đầu: "Cám ơn... Cám ơn... Để bữa khác đi, mình bận lắm". Sau, tôi mới biết là Luận phải vội chạy xe ôm kiếm khách để mưu sinh. Nghĩ lại, nếu tôi lâm vào hoàn cảnh khó khăn như các bạn ấy chắc tôi phải bó tay thôi, chẳng biết làm gì.

Lê Thuận Cho trông khỏe mạnh nhứt lớp, có lần trong giờ học bắt gặp ảnh cứ nhìn ra cửa sổ, thầy hỏi nhìn gì ngoài đó thì ảnh thiệt thà thưa:"Dạ... Em nhìn mây... Mây đẹp quá!", thì ra Cho có tâm hồn thi sĩ, làm thơ như lấy đồ trong túi... mình. Hiện giờ vợ chồng Cho có xe ba gát chở gạch ngói đất cát bán cho những người cần sửa sang xây cất nhà cửa.

Chắc hẵn còn nhiều bạn của tôi đang gặp khó khăn lắm mà tôi không biết hết đó thôi.

Đoàn Ngọc Ần khỏe khoắn bự con đậm vóc, say mê thể dục thể thao, đã "ra đi" ở Tuy Phước khi nhảy qua cái giao thông hào. Lê Ngọc Thanh có cái mũi "chun chun" như mũi thỏ nên bị chọc là "Thanh Thỏ". Thanh hát khỏe, thổi được harmonica, lại có giọng đọc tốt như một xướng ngôn viên của đài phát thanh BBC hồi đó, nên được đề cử đọc bài cho cả lớp chép hoặc đọc tin tức trong giờ sinh hoạt hiệu đoàn. Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 Thanh "gãy cánh" trên chiến trường Đông Hà - Quảng Trị. Đám tang của Thanh chúng tôi đến đưa tiễn đông lắm. Trong vài giây xúc động tôi khẽ hát: "Anh Quốc ơi... ", vậy là các bạn tôi lại cất tiếng hát theo như một lời tiễn đưa Thanh vào lòng đất mẹ.

Mạc Như Ban trắng trẻo, có vẻ "nhu mì nhủ mỉ", lại có tài ngâm thơ thổi sáo như Nguyễn Lùn. Tên là Lùn nhưng anh ta chẳng lùn chút nào. Lùn nói: "Tại tao là con một nên má tao đặt tên xấu láy như vậy cho... dễ nuôi". Ngoài tài thổi sáo Lùn còn chơi được cả violon. Vào Mùa Hè Đỏ Lửa, lại cũng cái mùa hè oan nghiệt này, máy bay trực thăng của Nguyễn Lùn bị bắn rớt ngay trước mắt tôi chừng hai cây số. Lê Sĩ Hòa thổi sáo giỏi, ngâm thơ hay và có tài xuất khẩu thành thơ. Năm 1970 (?), Lê Sĩ Hòa đã để lại một chân của mình trong một cuộc đột kích vào Chùa Hang ở Phù Mỹ.

Khúc Ngọc Bảo bị cận nặng, tuy đeo kính cận nhưng mỗi khi đọc bài hay sách báo thì cứ phải dán mắt mình sát vào trang giấy. Vợ chồng Bảo đã mất tích trong "một chuyến ra khơi sau bảy-lăm". Cũng như Phan Minh, Bảo thổi được harmonica nhưng "ngọt" hơn. Phan Minh sợ nói... cà lăm nên thường nói chậm rải, lại có tật hay giải thích dài dòng những gì mình nói ra. Khi đá banh Minh đá đều hai chân, nên chạy cánh nào cũng được.

Võ Chỉ thì cao dong dỏng, cũng mê đá banh lắm, có lẽ do mái tóc xeo xéo của ảnh trễ xuống trán nên tôi đặt Chỉ là "Anh Tám Sạt Ne". Mấy năm sau này gặp Võ Chỉ ở Sài Gòn, trông anh ta có vẻ giống... Chệt lắm. Hà Vang ở cùng xóm với Võ Chỉ trên đường Bùi Thị Xuân, sau lưng đài phát thanh và truyền hình. Sau giờ học buổi chiều, Vang và tôi thường ra sân vận động để đá banh. Vang đá thuận chân trái. Có lần tôi ôm banh đến nhà Vang bấm chuông, ba của Vang ra mở cửa, vì tôi quen miệng nói chơi nên hỏi: "Thưa Bác có Hà L. ở nhà không?" - (Hà L. là tên của Cụ) - Cụ trố mắt nhìn tôi, còn tôi thì... chết đứng tại chỗ như bị trời trồng. Nhưng Cụ hiền quá, chỉ nói: "Vang ở trong nhà, để bác kêu nó ra".

Trần Tư Cung là vua... "học nhảy" của lớp tôi. Học Đệ Ngũ, Cung thi đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp. Học Đệ Tam, Cung thi đậu Tú Tài I. Sau khi đậu Tú Tài II, Cung thi vô Đại Học Sư Phạm Sài Gòn, ra trường là Giáo Sư Vạn Vật của nữ trung học Quy Nhơn.

Trần Đình Thành quê ở Diêu Trì, thiệt thà chân chất như... cộng rơm ngọn lúa. Sau bảy-lăm tôi có đến thăm chơi nhà Thành vài lần. Gia đình Thành hiện đang định cư và khá ổn định ở Georgia. Nguyễn Văn Thân quê ở Tuy Phước, bự con lưng gấu. Năm Đệ Tam, trong giờ sinh ngữ phụ Pháp Ngữ, Giáo Sư Bích Đào yêu cầu học sinh cho vài ví dụ về động từ có vần er ở cuối chữ. Thân vừa giơ tay lên vừa... láu cá trả lời: "Em mê... Cô!". Cả lớp hiểu ngay là anh chàng có ý... nghịch đây. Cô Bích Đào giận lắm, sau giờ ra chơi, Thầy Hiệu Trưởng Trương Ân đến, "xì-nẹt" cả lớp một trận, nói: "Học trò chi mà... mất dạy, dám nói... mê cô". Thân đứng lên trình bày... chạy tội: "Thưa Thầy...Ý em muốn nói là động từ aimer đó... Cô à!". Thân có hỗn danh là "Khé Len Đưa" vì khi đọc từ "Calendar" thì anh ta phát âm là "khé len đưa". Gia đình Thân định cư ở Seatle, tiểu bang Washington và Thân đã qua đời vì bị viêm gan B.

Ngô Bốn to con lớn xác và "thàng" lắm. Bốn được Giáo Sư Anh Ngữ Nguyễn Văn Sở đặt tên là Mr. Four – Thì đúng rồi... Bốn là Four chớ còn gì nữa! Một vài đứa bọn tôi thường được Thầy Sở nhờ đến nhà bác cai trường mua giùm thuốc hút "ba tì bốn điếu ruby". Đỗ Xuân Diệu là con của hiệu vàng Kim Hoàn ở đường Lê Lợi, trước rạp ciné Lê Lợi. Cứ mỗi lần chụp hình thì Diệu là giơ máy hình lên... chụp lại, thành ra thấy tấm hình nào có người bị máy hình che mặt mình thì đó chính là Đỗ Xuân Diệu. Nghe nói, Diệu đã qua đời tại đài phát thanh Huế trong thời kỳ Phật Giáo đấu tranh.

Trần Hữu Đại siêng năng thông minh, đi Mỹ tu nghiệp chuyên môn, rồi xảy ra biến cố năm '75, kẹt, ở lại Mỹ luôn. Tôi nói với Đại: "Có một bài viết tầm phào vui vui của tao mà bối cảnh là tại nhà của mày đó!". Đại ngạc nhiên la lên: "Vậy hã!?" – "Ờ... Thiệt đó!". Mỗi năm gần đến ngày thi, tối tối Bùi Thám và tôi thường rủ nhau đi học bài dưới ánh đèn đường trên đường Cường Để (bây giờ là Trần Phú), trước trường Cường Để Mới.

Cường Để 1960-1967

Trần Viết Sơn "nói rất hay" (tức là nay rất hói) và tôi thì cùng ở Los Angeles. Sơn làm sponsor cho gia đình tôi sang Mỹ. Nhờ thừa hưởng nhân di truyền của thân phụ mình là đá banh hay, đi bóng khéo với "động tác giả" lắc léo nên Sơn làm trưởng ban thể thao của lớp vào hai năm Đệ Ngũ / Đệ Tứ.

Có lần gặp Cao Trọng Thẩm trong một tiệc đám cưới, Thẩm tâm sự với tôi: "Mày nhớ không... Học từ Đệ Thất lên tới mấy lớp trên, tao cứ mặc quanh năm suốt tháng một cái áo ấm không tay màu nâu, cốt là để che cái áo sơ mi đồng phục màu trắng bị rách phía sau lưng bên trong. Hồi đó nhà tao nghèo lắm". – "Tao phục mày lắm... Mày có chí lắm... Thẩm ơi... !". Thẩm nói tiếp: "Tao cũng ham vui lắm... Cứ "núp bóng" mấy "ông thần quậy" mà quậy theo. Kể cũng vui".

Trần Cao Khoa cùng quê với tôi ở xã An Nhơn, vóc người mảnh khảnh, nhỏ nhẹ, miệng luôn tươi cười, tính tình chân chất. Sau bảy-lăm, khi có việc cần xuống Quy Nhơn thì thường ghé thăm tôi. Vũ Minh Thúc nước da trắng hồng, tóc hớt kiểu đờ-mi cua nên lúc nào cũng thấy gọn gàng sạch sẽ, khi đi thì hay chúi đầu về phía trước, ưa nói chuyện "chính chị chính em". Thúc ở trọ và làm précepteur cho mấy người con của nhà sách Lê Sâm ở trước công viên thị xã có tượng Vua Quang Trung mặc chiến bào cưỡi ngựa.

Nguyễn Xuân Cảnh thuộc mẫu người "rộng miệng thì sang"; có số "làm lớn" nhưng vẫn rất bình dân, thiệt tình và xuề xòa với bạn bè cũ mới. Trần Vĩnh Long cũng là mẫu người "rộng miệng thì sang", vui tính, hay lý sự đến... sùi bọt mép. Sáu bảy năm trước đây, hay tin Long sang Mỹ ở Glandale, tôi mừng lắm gọi phone thăm. Sau, lâu lắm không thấy Long gọi lại, tôi... "lẩy" luôn.

Thời đi buôn thuốc Tây thỉnh thoảng tôi ghé thăm Trương Văn Hiếu và mua một ít "hàng chìm" (thuốc xịn của Ý). Hồi Nguyễn An Giảng lang thang thất nghiệp ở Saigon, vào dịp gần Tết, Hiếu thương và giúp bạn, cho Giảng đặt motor trước nhà mình để đánh bóng thuê đồ thờ bằng đồng. Sau này, sau lần về thăm Hiếu lần thứ nhì chừng vài tháng thì nghe tin Hiếu qua đời vì ung thư gan. Hoàng Đình Trang thấp người như Hiếu nhưng "có ngang" hơn. Năm năm trước đây nghe bạn bè nói Trang là hiệu trưởng một trường tiểu học ở quận 3 - Saigon.

Lê Vĩnh Phúc thấp người, "chắc đòn", mê võ thuật. Trong một dịp Liên Đoàn Hướng Đạo Bình Định tổ chức đại nhạc hội, Lê Vĩnh Phúc lên sân khấu biểu diễn thái cực đạo, coi khỏi chê. Nguyễn Thái Hùng bị cận thị nặng từ lớp Đệ Thất. Hùng lập gia đình sớm so với chúng tôi. Tôi có lần tá túc một đêm tại nhà Hùng để ra ga xe lửa Hòa Hưng cho gần. Đêm đó Hùng và tôi có ngủ chút nào đâu, nói lung tung chuyện cũ chuyện mới cho đến giờ ra ga luôn.

Nguyễn Đức Thi có máu kinh doanh, nhiều năm nay đã mở nhà hàng Hình Như Là Restaurant trên đường Nguyễn Đình Chính - Phú Nhuận, ngày càng phát triển. Có lần về bên nhà, tôi mời các bạn ở Saigon và các nơi gần đó đến gặp nhau tại nhà hàng của Thi. Còn nhớ, Thi có con chó berger to như con dê, khi đứng trên hai chân sau thì cái đầu nó cao tới cổng sắt. Con chó này thuộc loại giống tốt nên thường được khách đem mấy "nàng chó" đến mua giống.

Đinh Văn Quế có khiếu thẩm mỹ, vẽ đẹp, tốt nghiệp đại học Kiến Trúc Saigon về làm việc tại Huyện An Nhơn - Bình Định. Tôi đã đến coi Nhà Văn Hóa của huyện này được xây lên dựa theo họa đồ thiết kế của Quế. Còn Nguyễn Hữu Lệ coi "nhí con" vậy mà hết xẩy lắm đó, sáng trí lanh lẹ, nhưng có tật... "cà" từ hồi Đệ Thất, bây giờ chẳng biết có còn... "cà" hay không!? Năm 1967, Lệ mời bạn bè đến quán bò bảy món Ánh Hồng ở góc Trương Tấn Bửu - Công lý cũ dự buổi tiệc chia tay để đi Úc học. Nhớ lần Lệ từ Canada sang Mỹ chơi có đến thăm và vui vẻ nghỉ đêm tại nhà tôi trên cái sofa mà chẳng câu nệ gì vì hồi đó tôi ở nhà thuê một phòng, nhỏ lắm.

Ngô Đăng Tình là một trong những giọng ca vàng của Cường Để hồi đó. Tình làm Trưởng Ban Văn Nghệ hai năm của lớp. Giọng hát Tình rất chứa chan tình bạn

"Bạn ơi ! Quan hà xin cạn chén ly bôi,
ngày mai tôi đã đã đi xa rồi
Thành đô lưu luyến chắn bước chân tôi,
trước giờ chia phôi mấy ai không bùi ngùi,
kỷ niệm buồn vui mãi ghi trong lòng tôi
... ... ... "

(Biệt Kinh Kỳ - Minh Kỳ)

cũng rất lãng mạn hứa hẹn

"Tôi sẽ về thăm em chiều nay,
khi nắng vàng chưa tắt ngoài đê,
khi bến đò từ ly xưa
còn đón bước chân đi
của khách chinh yên từ chốn sơn khê
... ... ... "

(Tôi Sẽ Về Thăm Em - Hoàng Nguyên)

và Tình cũng đã mơ về những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt

"Những chiều hành quân ôi những chiều hành quân
tím chiều hoang biền biệt.
Một chiều rừng mưa được tin em gái mất
chiếc thuyền như vỡ đôi
... ... ... "

(Những Đồi Hoa Sim – Thơ Hữu Loan - Nhạc Dzũng Chinh)

Hải Dương tức Dương Văn Quả cũng là một trong những giọng ca vàng của Cường Để. Giọng hát của Quả nghe na ná như giọng ca của Duy Khánh, rất tình tự dân tộc

"... ... ...
Nhớ cố huơng xao xuyến tấc lòng mau dồn chân
Vết buớc đi trên phiến đá mòn còn in dấu
Từ bóng cây ngôi mộ bên đuờng
Từ mái tranh bên đình trong làng
Nguồn sử sanh âm thầm vẫn sống
Bao mối thương vang dậy trong lòng
... ... ... "

(Hòn Vọng Phu 3 - Lê Thương)

cũng rất thiết tha ngọt ngào

"... ... ...
Em ơi chờ anh về
dù cho năm tháng xóa mờ thương nhớ.
Đêm nao trăng thề
đá vàng ước hẹn đẹp lòng người đi.
Em biết chăng em
đã bao thu rồi
vắng lạnh lòng trai nơi ngàn phương
... ... ... "

(Thương Về Miền Trung - Minh Kỳ)

và cũng vô cùng đậm đà tình quê hương

"... ... ...
Mẹ ơi chỉ còn đất mẹ mà thôi
để con, còn đi gìn giữ cho đời
Đã mang trong lòng kiếp con người
phải thương nhau hoài chớ quên lời
Mong một ngày mai chan hòa đất mẹ niềm vui
... ... ... "

(Lối Về Đất Mẹ - Duy Khánh).

Lê Đức Tùng trọ học tại nhà Dương Văn Quả. Giỏi giang thông minh lanh lợi nhưng sao cái số Tùng lại luôn lận đận. Lê Đức Tùng có cái răng khểnh hơi lớn hơn hai răng bên cạnh nên có phần bị "phá nét", nếu nó nhỏ hơn chút xíu thì... dám chết thiên hạ lắm. Có lần buồn chuyện gì không biết, Tùng và tôi - hai tên lính sữa - xách nhau đi uống bia (thời đó chưa có bia... ôm). Đến khi xỉn quắc cần câu thì thằng "xìu xìu" dìu thằng "ểnh ểnh" về, khật khà khật khưỡng dưới cơn mưa. Buồn chết đi được. Sau bảy-lăm hai vợ chồng Lê Đức Tùng - Nguyễn Thị Hiếu định cư ở Canada, nghe nói Tùng vẫn chưa bỏ được thuốc lá và rượu. Tùng đã qua đời tại nước này.

Còn tôi thì dở dở ương ương, chẳng có gì để nói hết. À không... Có chớ... Vì trong số mười ngón tay của tôi có tới bốn ngón không có móng (do bẩm sinh) nên Bùi Thám đặt tôi là "Cùi Sứt Móng". Nhớ hồi Đệ Thất, thỉnh thoảng các chị trong lớp thích ngón tay út không móng của tôi lắm nên cứ theo xin: "Cho tao rờ chút... Cho tao rờ chút... !". Lên Đệ Ngũ tôi đã..."trổ mã" nên chẳng có chị nào dám... xin rờ chút nữa.

Tôi còn có một "thành tích khá lẫy lừng" nữa. Đó là năm Đệ Ngũ, vào đêm Tết Trung Thu, theo thông lệ hằng năm, các trường trung tiểu học trong thị xã thi và rước lồng đèn quanh thị xã. Thôi thì đủ màu đủ kiểu, đẹp thiệt là đẹp. Chẳng biết mấy tay nào đó có "sáng kiến" liệng đá liệng sỏi cho bể lồng đèn chơi, có vài chiếc bị cháy. Thấy... vui quá, tôi bắt chước, cúi xuống nhón một viên sỏi, vừa dang tay ném thì tôi bị Giáo Sư Hướng Dẫn là cô Lê Thị Đào... xách tai. Sáng thứ hai chào cờ đầu tuần, trên hai chục tên ném đá lồng đèn - trong số đó có tôi - bị kêu lên cột cờ, "được" thầy Tổng Giám Thị Lương Thanh Danh "vinh danh là vĩ nhân", hết chào cờ về lớp phải quì trên hành lang trước lớp mình suốt buổi sáng. Đáng đời!

Tôi định kết thúc bài này thì "Lớp Trưởng Muôn Năm" Hồng Quốc Anh phone tới hỏi tôi có nhớ một chuyện "đáng nhớ" trong dịp lễ Quốc Khánh trước năm '63 không? "Tao không nhớ, nó ra sao, mày kể đi". Rồi Lớp Trưởng kể rằng, vào dịp lễ này trường nào cũng tham dự diễn hành với đội ngũ thiệt chỉnh tề, đi đều bước theo nhịp marcia với tiếng trống tiếng kèn thiệt hùng tráng. Nam sinh thì quần trắng áo trắng, nữ sinh thì áo dài màu xanh da trời. Chợt trời đổ mưa, càng lúc càng nặng hột, học sinh tan hàng chạy đi tìm chỗ trú mưa. Nhà thuốc Hồng Nam của ba má Trần Chí Thành (trước trường Cường Để Cũ) là đông học sinh nam nữ vào đụt mưa nhứt. Tội nhất là nữ sinh, áo quần mỏng le mỏng lét mà bị ướt vì mưa thì... phải biết. Ông trời cũng không... "cover" nổi nữa là... Kể đến đây chẳng biết Trưởng Lớp đang nhớ lại những gì mà phá lên cười ha hả, cười hết ga trong phone.

- Sao bữa trước tao hỏi mày có nhớ gì không, giúp tao viết bài này với thì mày nói là không. Bây giờ lại lòi ra cái chuyện này. Quỷ xứ... !"

Lớp Trưởng lại cười ngặt ngà ngặt nghẽo:

- Úi... Cái chuyện này mà không đáng nhớ thì nhớ chuyện nào đây... Hã, ông bạn dzàng!?

Thưa các bạn, tôi xin chấm dứt bài này tại đây. Nếu các bạn có nhớ thêm gì nữa thì hãy kể đi, kể lại đi để chúng mình cùng nghe, cùng nhớ lại cái thuở niên thiếu hồn nhiên, khi thì dễ thương, khi thì bợm bải dễ ghét... dễ gì quên ấy.

Thân mến chào các bạn.

Lê Huy
(Los Angeles, 2011)
  
Thêm bình luận