Trang thông tin liên lạc của cựu Giáo Sư và học sinh Trung Học Cường Để Qui Nhơn

Trang Facebook của cuongde.org

  • hinhCu 1200
  • NhaGiuXe1200
  • CD4 1200
  • DaiThinhDuong1200

Thơ

BÌNH ĐỊNH

Hai dòng ba dãy kết non sông*
Bình Định phì nhiêu lắm ruộng đồng
Hùng vĩ Trường Sơn liền cõi Bắc
Bao la Nam Hải góp bờ Đông
Chí trai Nguyễn Huệ lừng gươm bạc
Tiết gái Bùi Nương rạng yếm hồng
Nhơn kiệt địa linh miền đất cũ
Ngày về ai chẳng mỏi mòn trông.

Hè 1981

* Ca dao nói về Bình Định
Hai dòng sông chảy non cao
Biển Đông sóng vỗ rạt rào
Tháp xưa làm bút ghi tiếng anh hào vào mây xanh.


NHỚ QUI NHƠN

Đất Việt giang sơn lắm gấm hoa
Qui Nhơn một mảnh cố hương ta
Bốn mùa sóng vỗ chân Gành Ráng
Tám tiết mưa giăng ngọn Tháp Bà
Thị Nại ngàn xưa công tổ quốc
Đèo Son muôn thuở dấu ông cha
Sông hồ dù phải thân xuôi ngược
Dễ mấy ai quên cảnh nước nhà.

Virginia, 1980


HOÀI HƯƠNG

Từ ngày vượt sóng Thái Bình Dương
Thấm thoát năm năm biệt cố hương
Cảnh lạ không khuây bao nỗi nhớ
Quê xưa khó cạn bấy niềm thương
Biển dâu đành thẹn thân hồ hải
Sớm tối không nhòa bóng nghĩa phuơng
Công đức tiền nhân soi dấu cũ
Dòng đời đâu mãi cảnh thê lương.

Mùa Xuân 1980


BÂNG KHUÂNG

Tha hương xuân nữa mấy xuân rồi
Tháng lụn năm tàn cứ mãi trôi
Giá áo, áo còn chưa chật móc
Túi cơm, cơm vẫn chỉ lưng nồi
Mày râu chí cả đành thôi thế
Bồ liễu tình con đến thế thôi
Mẹ dưỡng cha sinh khôn bỡi nước
Nghĩa ân ai trả nợ yên ngồi?

Xuân Nhâm Tuất 1982


CHẠNH LÒNG

Dừng chân ngắm cảnh nước non Tây
Hồi tưởng quê xưa những tháng ngày
Sông Lại sông Côn vươn ngọn sóng*
Núi Bình núi Nhạc lộng đường mây
Nhớ đầm Thị Nại mùa trăng rụng
Nhớ suối Phương Phi xứ liễu gầy
Dặm khách trông vời sông núi biếc
Cánh chim bạt gió chạnh lòng đây!
Bên dòng Green River, WA.

Chiều xuân Mậu Dần 1998


TRƯỜNG VĂN TRẬN BÚT

Dẫu chẳng gươm đao cũng chiến trường
Nghìn xưa còn đậm sử từng chương
Thiên thư phạt Tống an bờ cõi*
Thần bút bình Ngô vững mối giường**
Nhiễu loạn, nghe chừng vang tiếng thép
Thái hòa, tưởng đến rộn niềm thương
Xuân tiêu án sách hồn thiêng ngự
Hoài cảm thơ đề vọng nghĩa phương.

Xuân Mậu Thìn 1988

* Lời thơ của Lý Thường Kiệt:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Nhữ hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.
** Mượn ý câu: “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”.


NHỚ QUÊ

Quê xa Cát Thắng nhớ trưa chiều
Phú Giáo nền xưa mãi kính yêu
Mỹ Thuận nhân hòa trên với dưới
Mỹ Long địa lợi thấp cùng cao
Mỹ Bình tổ phụ tài Hưng Trị
Phú Ốc gia hương đức Vĩnh Lưu
Long Hậu ngày mai vui Khánh Lộc
Xóm thôn Hưng Định đẹp dường bao!

Seatle, Xuân Canh Ngọ 1990

Cước chú: Xả Cát Thắng thuộc quận Phù Cát tỉnh Bình Định (sinh quán của tác giả) xưa có 10 thôn: Phú Giáo, Mỹ Thuận, Mỹ Long, Mỹ Bình, Hưng Trị, Phú Ốc, Vĩnh Lưu, Long Hậu, Khánh Lộc và Hưng Định.


TUỔI TỴ TỰ THUẬT

Thất thời tất tả tới trời Tây
Thổ trạch tiền tài thảy trắng tay
Thường trú thoạt tiên thê thảm thật
Tiền trình tự thủy thiết tha thay
Tảo tần tập thể thung thăng tiến
Tằn tiện tư thân thủng thẳng tày
Thiếu tám tuổi thì tròn thất thập
Tri tâm “tri túc” thế trày trày.

Thu tiết 1991


ĐẾM THU ĐI

“Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san”.
Nguyễn Du

Nhọc lòng dứt áo buổi phân kỳ
Đẫm ướt vai gầy lệ biệt ly
Góc biển chân trời hờn lữ thứ
Ngọn rau tấc đất thẹn tu mi
Gió mưa xé nát lòng thương hải
Sớm tối nghe buồn tiếng tử quy
Nợ nước tình nhà hai gánh nặng
Đứng ngồi khắc khoải đếm thu đi.

Thu 1981 trên đảo Mercer Mercer Island, WA. USA.


BIỂN CHIỀU

Chập chùng khói sóng ngập quê hương
Vạn cỗ khơi sầu khách viễn phương
Nhớ bấy hè xưa dan một nắng
Thương bao thu cũ gội hai sương
Chung ly rượu đắng chung ly biệt
Mấy đoạn đường xa mấy đoạn trường
Mây nước bồi hồi mơ tưởng bóng
Con đò đợi khách bến thùy dương.

Mùa Thu 1981


SƯỞI ẤM TÌNH QUÊ

Bên nhau sưởi ấm chút tình quê
Uống trọn đêm nay chớ vội về
Đón tết, ly anh sao ngập đáy
Mừng xuân chén chú vẫn tràn be
Nâng chung nầy nhé, chung hoài bão
Nốc cạn đi thôi, cạn ước thề
Đây đó tàn canh gà gáy sáng
Nghe chừng giục giã bước sơn khê.

Xuân Tân Dậu 1981


BẮC BÌNH VƯƠNG NGUYỄN HUỆ

Dẹp giặc Xiêm La diệt Mãn Thanh
Gươm trần xóa sạch hận sông Gianh
Chinh Nam bốn bận đền bao nghĩa
Phạt Bắc hai phen đáp mấy tình
Là trí, là nhân, là dũng lược
Ấy công, ấy đức, ấy oai linh
Khí thiêng hun đúc trang hào kiệt
Bốn chục xuân xanh, xanh sử xanh.

Mùa Xuân Bính Tý 1996


NỮ TƯỚNG BÙI THỊ XUÂN

Trưng Triệu, noi gương được mấy ai
Non sông nguy biến bước chông gai
Trấn Ninh chiến lũy gươm loang loáng
Nhật Lệ triều lưu sóng sụt sùi
Rạng tiết trung thần - suy vận nước
Kinh hồn cường địch - phục đầu voi
Tây Sơn muôn thuở lưu danh tiếng
Dạ sắt lòng son gái tuyệt vời.

Mùa Xuân Bính Tý 1996


VỊNH CON NHỆN

Khá khen con nhện khéo giăng tơ
Khoan nhặt ra tay chẳng cậy nhờ
Sương nắng chi nề thân bé mọn
Sớm trưa nào ngại bóng chơ vơ
Vốn không cung kiếm không yên ngựa
Cũng một giang sơn một cõi bờ
Lưới nhẹ đưa theo làn gió phẩy
Ruồi, ong... xâm phạm xác nằm trơ.

Vào Đông 1982


Song Nguyên



Vài hàng về tác giả:

- Tên thật: Nguyễn Ngọc Thạnh
- Nguyên Quán: Phù Cát, Bình Định
- Trước 1975: Công chức Việt Nam Cộng Hòa
- Sau 1975: cùng gia đình di tản sang Hoa Kỳ
- Định cư tại Seatle, Tây Bắc Washington, Hoa Kỳ
- Năm 1980: giải nhất văn chương do Trung Tâm Dịch Vụ Đông Dương (Indochine Service-Center) và đài phát thanh Tiếng Nói Cộng Đồng Đông Dương tổ chức tại San Diego
- Tác phẩm:
- Đấu Tranh Chưa Tàn Cuộc (thơ trường thiên) ấn hành năm 1987, tái bản lần thứ nhất năm 1995.
- Những Dòng Tâm Tư (thơ) năm 1998
- Thanh Khí Lẽ Hằng (thơ) năm 1998
- Hương (thơ) năm 1998.

Trích từ Đường Thi Bình Định, tuyển tập thơ do Bút Duyên Hội Tụ xuất bản năm 2009 tại Hoa Kỳ.
 
Thêm bình luận