Thi Đường Bình Định tụ về đây
Ngan ngát hương hoa trải sắc đầy
Kim cổ rạng ngời câu chính khí
Nghĩa nhân sáng tỏa đất trời Tây
Thơ văn xướng họa danh tùng bách
Cung kiếm so tài hội gió mây
Đạo đức lưu truyền trang sử Việt
Ngàn sau gởi lại nước non nầy.
NIỀM RIÊNG
Quê người thắm thoát mấy năm qua
Dạ luống bâng khuâng nỗi nhớ nhà
Nghĩa nặng tình thâm yên giấc mẹ
Ơn dày sâu thẳm nặng lòng cha
Công danh đâu nữa tan bèo bọt?
Sự nghiệp còn chăng bóng nhạt nhòa
Lòng vẫn chưa nguôi cơn quốc biến
Tâm tư trĩu nặng gánh sơn hà.
Tân Tỵ 2001
QUA ĐÈO CẢM TÁC
Từ đó về đây cách mấy đèo*
Đường đi lên xuống khúc quanh queo
Non cao lởm chởm hòn hòn chất
Sông rộng lô nhô đứa đứa chèo**
Một dãy sơn hà ngang dọc đó
Đôi vừng nhật nguyệt lững lơ treo
Tang bồng lỡ hẹn nam nhi bỉ
Một kiếp nhân sinh tựa cánh bèo...
Hạ 1986
* Đèo Mang Giang và đèo An Khê
** Sông Côn
KHÁT NƯỚC
Thân tặng Anh Đặng Trọng Hối
Cử nhân GK Vật lý
Cùng trong chuyến vượt biên ở nhà tù F1-1982 (Bị vi phạm kỷ luật vì lấy nước uống ngoài tiêu chuẩn đã chia)
Trưa nồng khát nước dạ nôn nao
Nhớ nước lòng ta luống nghẹn ngào
Nước mất, thân nầy cam tủi phận
Nhà tan, thương bạn kiếp lao đao
Giận quân bán nước, ngồi thao túng*
Ghét kẻ mua danh, đứng tự hào**
Hồn nước đâu đây vang tiếng gọi
Đau lòng nhớ nước hận càng cao.
* 1 tù nhân được cán bộ đặc trách ngồi chia nước từng ca nhựa.
** 1 tù nhân khác làm nhà trưởng.
1982
DÉP RÂU
Tác giả vi phạm kỷ luật “Nếp Sống Văn Minh” để dép lộn đầu.
Tai ác làm chi hỡi dép râu?
Cả ngày bận rộn lại lo âu
Để nguyên thẳng nếp còn theo dõi
Nhỡ bạn nào chơi đá lộn ngầu
Dép lốp trở nên tai họa đó
Giày da ngược lại có sao đâu
Biết vầy đổi chác chi cho khổ
Để phải kêu oan lũ giáo đầu*.
Nhà tù F1, tháng 8-1982
* Cán bộ Quản giáo
VẬN CÙNG
Thương tặng anh vợ Trương Văn Trà
Tám kỷ xuân thu gặp vận cùng
Lỡ bề gánh vác, Lỡ bề bưng
Sách xưa đem dạy, thời không dụng
Thân yếu làm thuê, thế chẳng dùng
Thân thích khó nhờ, sơ khó cậy
Ruộng vườn thì có, lúa thì không
Ngày mùa đành chịu ăn cơm ghé
Cha nhịn con ăn, vợ nhịn chồng.
Vụ Hè thu 1983
BÓNG CHIỀU TAN
Trời thu quạnh vắng bóng chiều tan
Ngọn gió heo may động lá vàng
Lẻ bóng lưng đồi, đôi cánh nhạn
Đơn côi chiếc bách, phận hồng nhan
Xuân về em lạnh lòng băng giá
Thu đến anh tan giấc mộng vàng
Dù nhớ, dù thương đành lỗi hẹn
Tình ta lạc nhịp mấy cung đàn.
Thu 1969
ĐỒI LÂM VIÊN
Chạnh lòng tưởng nhớ, thuở Đồi Mơ
Thoảng chốc, tâm hao dạ thẩn thờ
Đà Lạt mơ màng mùa phượng thắm
Qui Nhơn trầm lắng sóng xao bờ
Tình nồng đẹp tựa câu lưu bút
Nghĩa nặng tưởng chừng chuyện tóc tơ
Đối ảnh, đam mê người quốc sắc
Hồn tan, chết lịm giữa trang thơ!
Đà Lạt hè 1969
THU NHỚ
Thu về chạnh nhớ dáng hình em
Lồng bóng trong trăng, trải trước thềm
Mấy chục năm qua, còn luyến ái
Bây giờ gặp lại, nặng lòng thêm
Tha hương đất khách, mong người cũ
Cố quốc trường xưa, gặp bạn quen
Bút mực tương tư đâu còn nữa!
Sương mờ gió lạnh cuốc thâu đêm.
Tàn thu 2005
XUÂN THA HƯƠNG
Người đời ai dể trải trăm năm
Thế sự đa đoan, lắm khổ đằm
Những tưởng, xuân sang vui họp mặt
Ai ngờ, tết đến chẳng về thăm
Tha hương đất khách, đau lòng khách
Cố quốc mù tăm, vẫn biệt tăm
Nợ nước, còn mang lời nguyện ước
Tình riêng, sao hẹn đến tròn năm?
Xuân 2004
ĐÊM LẠNH
Đêm lạnh, trăng thanh ngã bóng tà
Lay cành dạ lý, thoảng hương hoa
Trời cao vằng vặc ngàn sao tỏ
Đất thấp lơ thơ mấy xóm nhà
Mây vẽ lưng trời, khi tan hợp
Trăng lồng đáy nước, nhuốm sương pha
Đôi dòng hứng cảm, trao cung quế
Ướm hỏi chị Hằng, lạnh lắm na?
Tháng 8-1970
KIẾP THA PHƯƠNG
Cuộc sống lưu vong chốn viễn phương
Một đời lang bạt. lắm bi thương
Quay về quá khứ buồn vô hạn
Hướng tới tương lai tựa cánh hường
Dẫn dắt đàn con vừa mới lớn
Nương nhờ đất hứa quyết nêu gương
Noi theo tiền bối dòng anh kiệt
Chẳng phí công trình vượt đại dương.
XUÂN ĐINH HỢI
Tha thướt nàng xuân đến rỡ ràng
Khoe mình hương sắc tỏa hào quang
Bướm hoa ngây ngất giao duyên thắm
Tùng cúc sum sê đón nắng vàng
Trừ tịch ba mươi đêm bất tận
Giao thừa mồng một bóng xuân sang
Thời gian trôi mãi theo dòng chảy
Xuân đến, mừng xuân, phước lộc tràn.
NÓI VỚI BẮC PHƯƠNG
Bạt cánh tay thề chỉ Bắc Phương
Cắn răng nuốt lệ, nén đau thương
Nhìn về Bản Giốc tan lòng trúc
Ngoảnh lại Hoàng Sa tụ máu hường
Ải Bắc Nam Quan hồn tỏa khói
Hồ Tây Trưng Nữ nước soi gương
Mấy nghìn năm trước bao hào kiệt
Lẫm liệt, can trường, rực thái dương.
Trọng Đông 2007
NHỚ BẠN
Thương tặng Anh Võ Trung Hậu
Bạn đã đi rồi, ta ở đây
Niềm riêng, nỗi nhớ, dạ nào khuây
Rưng rưng mắt lệ, buồn khôn xiết
Tủi tủi lòng đau, luống ngất ngây
Dẫu biết trăm năm là cõi tạm
Còn đâu ngày tháng để đong đầy
Tình bằng, nghĩa bạn tìm đâu thấy
Chỉ thấy, mình ta khóc cỏ cây!
Chớm thu September 19-2008
Thư Trang
Vài hàng về tác giả:
- Bút hiệu: Thư Trang, Nguyễn Hoài Thư, Đuốc Nhà Nam
- Tên thật: Nguyễn Bá Thư, tuổi: Quý Dậu
- Chánh Quán: Hữu Pháp, Cát Chánh, Phù Cát, Bình Định
- Giáo chức Bình Định, Qui Nhơn từ (1959-1966) và (1969-1975)
- Sĩ quan khóa 22 trường Bộ Binh Thủ Đức. Đơn vị: TT 2 TM & NN Nha Trang
- Tiểu đoàn phó Tiểu Đoàn 3, chiến đoàn Quang Trung BĐ
- Biệt phái về Bộ Giáo Dục 1969
- Sau 1975: Tù nhân chính trị hơn 4 năm tại K 18, Kim Sơn, Bình Định
- Đến Hoa Kỳ năm 1996. Hiện ở San Jose, California
- Giải nhì thi thơ trường cấp 3 An Nhơn 1952
- Chủ bút nguyệt san Tự Quyết, LLCB tỉnh Khánh Hòa 1954
- Góp mặt trên các báo: Đuốc Nhà Nam, Độc Lập, Sóng Thần, đặc san Khóa 22 Thủ Đức
- Ở hải ngoại: cộng tác với đặc san Cường Để, Houston TX, Tây Sơn BĐ Nam-Bắc Cali và các báo khác tại Hoa Kỳ
Trích từ Đường Thi Bình Định, tuyển tập thơ do Bút Duyên Hội Tụ xuất bản năm 2009 tại Hoa Kỳ.