(1874-????)
- Năm sinh: 1874
- Quê quán: Thạnh Mỹ, Hoài Nhơn, Bình Định
- Không rõ năm mất
KHÔNG ĐỀ
Dễ ghét đời sao chỉ biết tiền*
Mặt mày như quỷ cũng nên duyên
Dốt ngu lắm của, người khen giỏi
Tú cử không tiền, nó nói điên
Lắm kẻ bỏ tiền mua chức tước
Nhiều người lấy bạc để mua tiên
Than ôi tình nghĩa trên môi miệng
Thực tế đời sao chỉ biết tiền.
* Tác giả đỗ cử nhân năm 1909 tại Trường Thi Bình Định, làm bài thơ chế nhạo một người nhà giàu, nhiều vợ, nhờ đưa hối lộ được phẩm hàm.
TRẦN TRỌNG GIẢI
(1884-1946)
- Tên thật: Trần Hữu Phùng
- Tự: Trọng Giải
- Quê quán: Cảnh Vân, Tuy Phước, Bình Định
VÀO SÀI GÒN LÀM BÁO
Cũng dự mày râu với nước non
Can chi mang ách giữa Saigòn!
Nằm cong Xóm Chiếu lưng đà mỏi
Dạo khắp Cầu Quay gót lại mòn
Liếc mắt muốn mua đôi vật mọn
Rờ lưng không được một xu con
Hải Tai* qủi quyệt hơn ai hết
Tiền có trong lưng nói chẳng còn!
* Hải Tai nghĩa là Biển thay, nói lái thành Bảy Thiên tức ông Đào Thuyên thứ Bảy.
GIỮA HUẾ THAN THÂN
Chậm bước kinh đô cũng bỡi tiền
Đêm nằm trằn trọc ngủ không yên
Thương em chín khúc vò tơ rối
Sợ mẹ năm canh bận chuỗi phiền
Vào thế nên chi mang lấy tục
Nào ai chẳng muốn sướng như tiên
Nhờ Trời nhờ Phật nhờ Tông Tổ
Có lẽ đâu hoài vận đảo điên.
ĐẶNG ĐÀO TRÚC TIÊN
(1888-1976)
- Sinh ngày: 1/3/1888
- Sinh quán: Bình Định
- Con gái của danh nhân Đào Tấn
- Mất ngày 14/6/1976 tại Arlington, Virginia, USA
GIỌT LỆ SÔNG VÂN
Lai láng Sông Vân chảy trước nhà
Sông Vân như đã chán cho ta
Mưa chan từng trận mồi da trúc
Sáp đượm ngàn cây lạt bóng nga
Chuốc chén khấn cùng người mặt khuất
Chung thuyền nhớ mãi chuyện năm qua
Thơ đề chiếc lá nương theo sóng
Gởi xuống tuyền đài nỗi thiết tha.
SƯƠNG RƠI
Đêm tàn lá đọng giọt sương rơi
Trăm nỗi can trường khó héo môi
Cảnh cũ mơ hồ in trước mặt
Lời xưa nhắc nhở thoảng bên tai
Đoàn viên chuyện hóa chiêm bao ngắn
Tịch mịch tình thêm khắc lậu dài
Đất lạnh thương đau người chín suối
Sương đầy nấm cỏ bóng trăng côi.
TRẦN HINH
(????-????)
- Quê quán: An Lương, Phù Mỹ, Bình Định
- Là con của liệt sĩ phong trào Cần Vương
- Năm sinh và năm mất: không rõ
VỊNH GÀ CỒ
Ngắm kỹ dung nhan cũng nực cười
Hay ăn hay ghẹo lại hay bươi
Quên mình vốn cũng loài lông cánh
Bôi mặt cùng nhau đá giống nòi
Cựa võ mao văn chi uổng mấy
Hang trùn lỗ dế chẳng chừa nơi
Cối xay ăn quẩn đành quen thói
Trên bếp kia kìa nước đã sôi.
CẢNH TRỜI ĐÔNG
Trời đông mưa gió tạt ngoài hiên
Hoa cỏ điêu tàn lắm nỗi phiền
Mù mịt sương pha non phả lấp
Tưng bừng sóng dậy nước nghiêng triền
Chim lìa cây cỏ bay kêu mãi
Chó cậy nhà sang gióng sủa liền
Cảnh ấy tình này càng bức xúc
Chừng nào dương khí được hồi thiên.
TRẦN TAM MÔ
(1890- 1952)
- Tục gọi: Tú Ba Tri Thiện
- Quê quán: Thôn Tri Thiện, Phước Quang, Tuy Phước, Bình Định
ĐỀ MIẾU ĐẬP BẾN CÁT
Lê triều Cảnh Trị bát niên gian
Tỵ Tổ Trần Đình sáng nghiệp nan
Xướng xuất lục thôn khai thủy đạo
Kiến tu nhất miếu phụng Thần quan
Cúng thổ tứ thời long tế điển
Biểu điền thập mẫu đáp công gian
Đại đại suy tôn vi yển trưởng
Tam phiên cấu tạo khánh bình an.
LÂM THỨC MẬU
(1891-1965)
- Tục danh: Nghè Mậu
- Quê quán: Nhơn Nghĩa, Nhơn Phúc, An Nhơn, Bình Định
- Đậu tú tài Hán học
TỰ VỊNH
Tết này tuổi đã bảy mươi mốt
Vất vả dè đâu còn sống sót
Đường hẹp trời chiều nghĩ giật mình
Mắt lờ tai điếc may qua đốt
Chữ kỳ rượu gạn gẫm thêm cay
Vần hiểm thơ chơi gò tạm gót
Tám chín mười mươi sẽ ở trời
Được bây hay bấy không càng tốt.
HÀ TRÌ
(1893-1979)
- Tên thật: Trần Đình Tân
- Sinh quán: Cảnh Vân, nay là Cảnh An, Phước Thành, Tuy Phước, Bình Định
- Đỗ Cử nhân khoa Ất Mão (1915) tại trường thi Bình Định
KHÔNG ĐỂ RÂU
Cũng chẳng nhiều nhưng cũng chẳng không
Râu nầy riêng biệt kiếp đàn ông
Giương mày thẹn với phường khăn yếm
Mở mắt buồn tênh cảnh núi sông
Dài quá Bàng Hồng vừa mụ tóm
Ngắn rồi Tào Tháo nỡ ai dung
Chi bằng cạo quách là hơn cả
Đừng để râu chi khỏi thẹn thùng.
TÔN CHỈ MỤC ĐÍCH HỘI KHỔNG HỌC
Thế tục nhơn tình ngắm đã suy
Lập nên Khổng hội để duy trì
Căn nguyên đạo đức tô bồi lại
Nền tảng luân thường tiếp tục xây
Nương gậy Thánh hiền cho vững gối
Mài gươm nhân nghĩa sẵn cầm tay
Dùng khoa giáo huấn thay kiềm kẹp
Viện lẽ càn khôn dạy hợp bầy.
QUÁCH TẤN
(1910-1992)
- Hiệu: Trường Xuyên
- Quê quán: Thuận Nghĩa, Tây Sơn, Bình Định
- Mất năm: 1992
ĐÊM TÂM SỰ
Việc khác thường hay chẳng khác thường
Miễn lòng chung thủy với văn chương
Tơ chưa ráo ruột tằm chưa nhộng
Song vẫn còn mai mộng vẫn hương
Lấy đó làm vui cơn đắc thất
Hơi đâu mà khóc chuyện tang thương
Chung trà pha ấm đêm tâm sự
Chầm chậm trăng lên khỏi ngọn tường.
ĐÊM QUA HƯNG THỊNH
Song song đôi tháp giáp đôi cầu
Tháp cổ cầu kim chung bể dâu
Gió bụi đi về xe ngựa đó
Sắt son chờ đợi giống nòi đâu
Mơ màng gấm quấn sông trôi mộng
Lạnh lẽo rêu phong vách đọng sầu
Rẽ bước vào thăm lòng bến cũ
Đã còn nguyên vẹn nước còn sâu.
HÀN MẶC TỬ
(1912-1940)
- Tên thật: Nguyễn Trọng Trí
- Sinh quán: Lê Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình
- Trú quán: Qui Nhơn, Bình Định
- Mất năm: 1940 tại Quy Hòa, Ghềnh Ráng, Qui Nhơn
ĐÀN NGUYỆT
Hỏi chơi: mấy tuổi? Đáp: mười lăm
Non nước từng phen nổi tiếng tăm
Bạc mệnh đàn chơi đan nửa kiếp
Đồng tâm tơ buộc chặc quanh năm
Chường mình trước án, trông đầy đặn
Nép mặt trong hoa nói thĩ thầm
Mười khúc đoạn trường say chửa tỉnh
Thuyền ai thấp thoáng muốn ôm cầm.
THỨC KHUYA
Non sông bốn mặt ngủ mơ màng
Thức chỉ mình ta dạ chẳng an
Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn
Khóc giùm thân thế hoa rơi lệ
Buồn giúp công danh dế dạo đàn
Trổi dậy nôm na vài điệu cũ
Năm canh tâm sự vẫn chưa tàn.
MAI ĐÌNH
(1917-????))
- Tên thật: Nguyễn Hoài Văn
- Sinh năm: 1917
- Sinh quán: Tăy Thuận, Tây Sơn, Bình Định
- Không rõ năm mất
BẾN HÀ RIÊU BUỔI CHIỀU
Cây sung trải biếc bến Hà Riêu
Mây nước lung linh ngập bóng chiều
Sóng dội Hòn Gành ngân phấn rải
Ráng giăng Rừng Cấm gấm hoa thêu
Ven bờ sương khói chuông vang vọng
Cuối bãi cò le sõng dập dìu
Kìa khúc thương lang ai chuốc giọng
Đá voi gõ nhịp gió hiu hiu.
LAM GIANG
(1919-????)
- Tên thật: Nguyễn Quang Trứ
- Sinh năm: 1919
- Sinh quán: An Lương, Phù Mỹ, Bình Định
- Trú quán: Bình Thạnh, Sàigon
HOA XUÂN VIỄN CẢM
Quỳnh cẩm nghê thường ngọc diện du
Triều lôi vô nại quyết Đông Âu
Hưng vong bất xuất Hồng nho luận
Quế ngọc kim tùng quốc sĩ ưu
Bình Dã lâm y Tần địa hiểm
Biên Hùng vân tự Hán thì thu
Khả liên ngạn thượng giang phong liễu
Bất báo sơn hà hữu tá chu.
MÙA XUÂN MỘ QUAN BINH PHÁP
Tự hào vũ lược toán vô di
Tàn lạp tương liên lệ ám thùy
Binh pháp tinh hoa hà sở dụng
Văn đàn sinh kế hốt kham bi
Dục cô hảo hữu không cừu mã
Lại đối hiền nhân thiểu trúc ty
Tịch mịch lan phòng xuân hựu vãn
Khu cơ độc tận cánh đề thi.
Hoà Thượng KẾ CHÂU
(1921 - 1996)
- Thế danh: Nguyễn Thành Long
- Pháp danh: Không Tín, Pháp tự Giải Thâm
- Quê quán: Nhơn Hậu, An Nhơn, Bình Định
TRUY TÁN PHƯỚC HUỆ QUỐC SƯ
Trường không vân tể nguyệt lung linh
Hải thượng cô hồng vạn lý chinh
Nhất quá tuyệt vô tòa ảnh lạc
Kỷ trùng duy hữu bích thiên minh
Chỉ duyên ác trược trầm mê mộng
Hồi nhập u đồ biển kiến tinh
Phước Huệ Quốc sư khai nghĩa học
Nguyên Thiều lịch đại chấn gia thinh.
TRUY TÁN QUỐC SƯ PHƯỚC HUỆ*
Trên cao mây tạnh nguyệt long lanh
Muôn dặm hồng côi biển vượt nhanh
Một tếch tuyệt không lưu bóng lệch
Mấy trùng chỉ có rạng trời xanh
Bởi thương cõi uế chìm mông muội
Trở lại đường mê dắt chúng sanh
Nghĩa học mở đường, thầy cả nước
Nối dòng Lâm Tế nức gia thanh!
Lộc Xuyên dịch
* Hoà Thượng Phước Huệ là một danh tăng (1869-1945)
Trích từ Đường Thi Bình Định, tuyển tập thơ do Bút Duyên Hội Tụ xuất bản năm 2009 tại Hoa Kỳ.