tabine shite
kigen ga yokute
Shimonoseki!
(đêm nay ngủ xa nhà
cảm thấy lòng nhẹ nhàng vui ca
Shimonoseki!)
(1974)
42.
Heike ondo*
taiko to kakegoe**
Heike odori
(Heike ondo
tiếng trống và kakegoe
điệu Obon nhịp nhàng)
(1974)
*) Bài folksong từ vùng Shimonoseki. Bài này diễn tả về “The Battle of Dan-no-ura”-, trận đánh quyết định số phận của Genpei War, xảy ra ngay tại eo biển Shimonoseki.
**) Kakegoe: tiếng hét gọi thường dùng trong Bon odori, Kabuki và ngay cả trong võ thuật (kiai).
43.
hanagasumi
komorebi no taba
haru no asa
(muôn cánh hoa anh đào
chùm nắng qua màn hoa như tuyết
sáng mùa xuân mới về!)
(1975)
44.
mangetsu wo nonde
yopparaichatte
yume ka genjitsu?!
(ngồi uống ánh trăng tròn
hôm nay ta say/ say mất rồi
giấc mơ hay hiện thực?!)
(1975)
45.
natsubate ni
suzushiku narite
fuurin no oto!
(cái nóng hè oi bức
bỗng trở nên mát mẻ dễ chịu
tiếng chuông gió vang đều!)
(1975)
46.
kaminari nari
ame ga furikeri
nami tsubuyaiteru
(sấm sét vang đầy trời
nước thỏ thẻ thầm thì trò chuyện
lăn tăn giọt mưa rơi)
(1973)
47.
Tookooji*
okuribi to mukaebi
urabon ni**
(Tookooji
đón chào đưa tiễn những linh hồn
urabon người vui!)
(1973)
*) TooKooji (東光寺): Đền thờ này nổi tiếng với những trụ đèn bắng đá và nơi người dân trong cộng đồng tụ tập lại ăn uống, nhảy múa và hát hò vào dịp Urabon.
*) Urabon (盂蘭盆): tương đương với Lễ Vu Lan hay Lễ báo hiếu.
48.
furuie ya
mokuzai to kawara
“Shichinin no samurai” *
(những dãy nhà cũ kỹ
bằng gỗ và ngói kawara
samurai bóng dáng một thời!)
(1973)
*) Bảy võ sĩ đạo: Phim do Akira Kurosawa làm đạo diễn (1954).
49.
inu ga “wanwan”
neko ga “nyanya”
asa no kaiwa!
(chú mèo kêu “meo meo”
chú chó cất tiếng sủa “gâu gâu”
cuộc trò chuyện buổi sáng!)
(1973)
Hình 6. Ở thành phố Fukuoka, Nakasu và Ohori Park là hai nơi khá gần gũi với tôi. Chúng tôi thường đến đây vào ngày cuối tuần để vui chơi hay đôi khi tìm một phút giây bình an sau những giờ tất bật với cuộc sống. Hình bên trái: Hàng trăm quán Yatai ở Nakasu- một đảo nhỏ nằm giữa lòng thành phố Fukuoka. Nakasu được bao bọc bởi hai dòng sông : Nakagawa và Hakatagawa. Hình bên phải: Ohori Park ở trung tâm thành phố Fukuoka. Công viên này yên lặng với chiếc ao- lớn-như- hồ nằm ở giữa với những con đường nhỏ và vườn hoa chung quanh. Công viên Ohori nằm trong Làng Dazaifu- một làng được kiến trúc theo lối “Monzen Machi” nhằm biểu lộ tinh thần hiếu khách “Omotenashi no kokoro” của người Nhật. (Google Images).
50.
nadeshiko
hana no na ka?
onnna no na ka?
dochira mo yuga de
utsukushiki
(nadeshiko
tên một loài hoa
hay tên người con gái?
gọi tên nào
cũng tao nhã dễ thương!)
(1974)
Trần Trí Năng
September 5, 2022
(nhân ngày lễ Lao Động ở Mỹ)