Dương Thông, Giản trưởng lão, Lỗ trưởng lão và Liễu Thiết Sinh bốn người cải trang thành thương gia, đi theo đường Lạc Dương, một mạch thẳng tới Trường An. Đi được một ngày đã vào tới thành Lạc Dương, Lạc Dương nằm một bên sông Hoàng Hà, là chỗ yếu lược quân hai bên phải tranh giành đời này qua đời khác, là cố đô của các triều đại nhà Chu, Tùy Đường vân vân, vô cùng phồn thịnh, nơi đây Cái Bang cũng có thiết lập cơ sở do tổng đà quản hạt, đường chủ là đệ tử của Ngô trưởng lão tên là Đổng Vân Hạo, lúc bọn Dương Thông bốn người vào thành Lạc Dương đã có Đổng Vân Hạo đem mười mấy gã đệ tử Cái Bang lại nghinh tiếp, bái kiến tân bang chủ, bọn Dương Thông ngồi uống trà hỏi thăm tình hình ở Lạc Dương biết được có chừng hơn trăm gã đệ tử, Dương Thông khích lệ mọi người một hồi, rồi lưu Đổng Vân Hạo lại một mình nói chuyện. Mọi người qua một đêm ở đó rồi lại khởi trình nhắm hướng tây tiến tới, dọc đường đều có người tiếp ứng, đi được thêm ngày nữa bèn đến chân núi Tung Sơn, bởi vì Liễu Thiết Sinh muốn đi vội về phân đà tây bắc do đó Dương Thông không lên Thiếu Lâm bái kiến Trí Thông đại sư, đi thêm được nửa ngày đường bèn đến chân núi Hoa Sơn, Hoa Sơn cùng Tung Sơn và Võ Đang làm thành thế chân vạc, tuy ba phái không nằm chung một tỉnh nhưng rất gần nhau. Bốn người đi thêm bốn ngày nữa bèn tới phân đà tây bắc, Liễu Thiết Sinh hỏi han tình hình phân đà kỹ lưỡng biết được Tang Thiên Ác quả nhiên giữ lời hứa, phân đà tây bắc thình lình có mười mấy đệ tử đột nhiên mất đi tung tích, bọn Dương Thông không khỏi giật mình kinh hãi, không ngờ tới Tang Thiên Ác đặt không ít bộ hạ tay chân trong đó, nếu không phải lão thất thủ bị bắt không ai biết biết hậu quả trong tương lai sẽ đi đến đâu. Liễu Thiết Sinh bèn tra xét kỹ càng từ trên xuống dưới xác nhận được từng đệ tử một trong phân đà lúc đó trong bụng mới yên ổn.
Bọn Dương Thông thấy phân đà tây bắc bình an vô sự rồi bèn nhắm hướng Hoa Sơn trực chỉ, tính chuyện thám thính tình huống vùng phụ cận ở đó, Liễu Thiết Sinh chọn một số hảo thủ của Cái Bang ăn mặc giả trang thành du khách, tiều phu vân vân cùng đi trước sau bọn Dương Thông, bởi vì Tống Thanh rành chuyện sử độc giải độc do đó Dương Thông cũng đem gã theo bên mình. Mọi người ra khỏi Trường An nhắm núi Hoa Sơn tiến tới chưa đến nửa ngày đã đến chân núi. Hoa Sơn nằm ở phía nam huyện Hoa Âm Thiểm Tây, phía bắc là Hoàng Hà, phía nam nối với dãy Tần Lĩnh, từ xưa đã nổi tiếng cao ngất thiên hạ, truyền thuyết Hoa Sơn hồi xưa vốn là núi chận sông, liên lạc với dãy Trung Điều, sông phải chảy vòng chung quanh núi, Sa Thần dùng cự linh thần thủ dựng lên Hoa Sơn, chân đạp núi Trung Điều, tay thì đắp, chân thì đạp, chia hai núi ra thành hai bên, thế là sông Hoàng Hà bèn chảy vòng đổ hướng đông ra biển, đồng thời cũNg tạo nên ba ngọn núi đông, nam, bắc bao quanh ngọn chính giữa, ngọn phía bắc nằm độc lập một mình. Hoa Sơn có tất cả năm ngọn núi lớn, phân biệt phía nam có Lạc Nhạn Phong, phía đông có Triều Dương Phong, phía tây có Liên Hoa Phong, , phía bắc có Vân Đài Phong và chính giữa là Ngọc Nữ Phong. Năm ngọn núi nối liền nhau khoảng cách, nhịp điệu vô cùng mạch lạc, xa xa nhìn lại như đóa hoa sen xòe cánh, chính giữa là nhụy hoa, nguyên cả chùm là một đóa sen màu xanh nở rộ lên trời không, bởi thế mà có tên là Hoa Sơn, sau này bởi vì chữ hoa (bông) và hoa (đẹp) cùng âm do đó mà thành ra Hoa Sơn (theo chữ sau). Và đám đệ tử phái Hoa Sơn sống trên núi này đời này qua đời nọ.
Khai sơn tổ sư gia của phái Hoa Sơn tên là Trần Truyền, tự là Viên Nam, là một đạo sĩ đắc đạo. Lúc lão còn thiếu niên nhằm thời loạn lạc, khoa cử không trúng, bèn đi khắp nơi tìm đạo, từng được bí truyền Chính Kinh Tâm Pháp của Ma Y đạo giả, từ đó bèn đi vào con đường đạo gia dịch học, sau này không biết lão lấy được từ đâu ra những bộ sách cổ thất truyền đã lâu đời như Hà Viên, Lạc Thư, Thái Cực Đồ vân vân, do đó thanh danh nổi lên như cồn từ đó lại càng đi sâu vào trong con đường đạo giáo. Đời Tống hoàng đế là Triệu Khuôn Dẫn lên ngôi rồi, từ lâu đã nghe đến danh tiếng của lão, nhiều lần mời lão ra làm quan đều bị cự tuyệt, cuối cùng lão viết một phong thơ giao cho Triệu Khuôn Dẫn nói rằng: 'Thần ham ngủ, không thích nằm thảm, không thích đắp chăn, gối đầu là đá, chiếu nằm là cỏ ...khi rãnh rỗi ngồi mơ làm Trương Lương, lúc buồn bã ngồi nghĩ đến Phạm Lãi, nóithì nói Mạnh Đức, không nói Lưu Bị, kẻ quân tử đời này chỉ nghĩ đến chuyện tranh chấp vẫn vơ. Có đâu như thần ngẫng nhìn núi xanh, nằm trong mây trắng, buông xuôi lông mày, bụng ngửa tênh hênh, ngủ một giấc ngon. Chẳng màng ngọc thố ló dạng trời đông, bánh xe đỏ lăn về trời tây.' Tống hoàng đế cũNg là người rộng rãi, bèn chuẩn tấu lời nguyện ước của lão. Sau này Tống đế thực tình hâm mộ tài năng của lão bèn ngự giá đến núi Hoa Sơn, đánh cờ với Trần Truyền và đánh cuộc rằng, nếu Trần Truyền thua cờ lão phải xuống núi phò giúp nhà vua trị nưỚc, còn nếu nhà vua thua, thì cả núi Hoa Sơn sẽ giao cho lão cai quản, hai người đánh cờ trên ngọn Triều Dương Phong, kết quả nhà vua thua thế là Trần Truyền được núi Hoa Sơn. Sau này lão bèn mở môn phái thu học trò, truyền thụ học thuyết đạo gia ở đó, thành ra tông sư một phái.
Người ta đồn rằng Trần Truyền là người ham ngủ, có khi ngủ đến cả mấy tháng, thậm chí đến nửa năm không xuống giường, như nhà sư Thiên Trúc luyện thuật Du Già vậy. Thật ra đó là lão đang luyện một thứ vũ công thật lợi hại, lão từ những cuốn sách Lạc Đồ, Lạc Thư vân vân lãnh ngộ ra yếu quyết hóa khí quy nguyên, sáng chế ra một thứ tâm pháp hít thở có thể bảo kiện thân thể cường tráng, bởi vì lãnh ngộ lúc ngồi một bên bờ hồ Thái Ất do đó lấy tên là Thái Ất Tâm Quyết, sau này trở thành một môn nội công tâm pháp thượng thừa nổi tiếng giang hồ, chính là Thái Ất huyền công danh chấn vũ lâm, lão còn sáng lập ra một môn quyền pháp và kiếm pháp, cho các môn đồ tập luyện cốt để thân thể khỏe mạnh, sau này biến thành quyền pháp, kiếm pháp phái Hoa Sơn. Lão còn sáng chế ra Âm Dương Ngư Bát Quái Trận, Lưỡng Nghi Thái Cực đồ vân vân. Vị sư tổ gia khai sáng phái Hoa Sơn thông hiểu học thuyết Tiên Thiên, cùng Đạt Ma sư tổ tề danh này sống đến một trăm mười tám năm, phái Hoa Sơn lúc đầu toàn là đạo sĩ, đến cuối đời Bắc Tống, triều đình thối nát, quân Kim kéo vào tàn phá cướp bóc, bách tính dắt díu nhau lên núi Hoa Sơn lánh nạn, đệ tử phái Hoa Sơn cũng xuống núi tìm quân Kim quyết chiến, giúp cho bách tính thoát khỏi bàn tay hung bạo, do đó trong đạo quan bèn có kẻ dân dã thường bắt đầu học tập vũ nghệ, đạo sĩ phái Hoa Sơn cũNg có người hoàn tục, ăn mặn uống rượu, bởi vì phải đối phó với quân Kim, phái Hoa Sơn mở rộng môn hộ thu nhận môn đồ phòng lúc quân Kim trở lại báo phục tàn sát bách tính, từ đó mà hình thành phái Hoa Sơn như ngày nay. Kiếm pháp và quyền pháp của pháiHoa Sơn trải qua nhiều đời chưởng môn không ngừng tu bổ, tinh diệu hơn xưa rất nhiều, đặc biệt là Thái Ất huyền công là tinh hoa của nội công đạo gia, đến đời Nam Tống, phái Hoa Sơn đã biến thành môn phái lớn thứ nhì sau Thiếu Lâm. Đến triều nhà Minh, phái Võ Đang quật khởi, còn phái Hoa Sơn thì bởi vì tranh chấp nội bộ nguyên khí tổn thương nặng nề càng lúc càng lụn bại.
Hoa Sơn từ xưa đã là một danh thắng, phái Hoa Sơn cũng tiếp đón khách dâng hương và khách vãng lai, có điều du khách phải bỏ tiền ra mới được lên núi thưởng ngoạn, không những thế còn phải có đệ tử phái Hoa Sơn đi kèm theo cùng du sơn ngoạn thủy. Bọn Dương Thông đến chân núi rồi bèn nghỉ dưởng sức một ngày, Dương Thông và bọn Giản trưởng lão quyết định lên núi theo cách thưởng ngoạn để tiện tra xét tình hình trên núi, Dương Thông cải trang thành một thiếu niên con nhà thương gia râu ria xồm xoàm, Giản trưởng lão và Lỗ trưởng lão thì hóa trang thành hai lão gia đinh, thế là ba người nhắm hướng lên núi thẳng tới, bởi vì phái Hoa Sơn tra xét du khách rất nghiêm ngặt, binh khí không được đem lên núi, gậy đánh chó của Dương Thông và hai vị trưởng lão đều gây chú ý, do đó không ai đem theo, mà Liễu Thiết Sinh cũng ở dưới chân núi tiếp ứng. Hoa Sơn từ xưa đến nay nổi tiếng là kỳ quan, có câu 'tự cổ Hoa Sơn nhất điều đạo', bắt đầu lên núi là có viện Ngọc Tuyền, nơi duy nhất dẫn đường lên núi, xây cất từ thời Tống, do đại đệ tử của Trần Truyền là Giá Đắc Thăng kỷ niệm sư phụ mà dựng lên, trong viện có con suối chảy từ dưới đất chảy lên, nước suối vừa trong vừa ngọt, không những thế truyền thuyết còn nói rằng con suối này thông với giếng Ngọc trên đỉnh, vì vậy mà đặt tên là viện Ngọc Tuyền. Bọn Hoa Sơn thấy DưƠng Thông ăn mặc hoa lệ lụa là, chi tiêu rộng rãi bèn vui vẻ hướng dẫn ba người, hai tên đệ tử dẫn ba người vào trong viện Ngọc Tuyền, chỉ thấy trong viện hành lang ngang dọc, đình đài điện các vô cùng tinh mỹ, khắp nơi nước chảy róc rách vòng quanh uốn lượn, rừng cây bụi trúc xen lẫn trong đó quả thật là một nơi u nhã.
Qua hết viện Ngọc Tuyền là lên núi, đi chừng đâu được nửa dặm bèn thấy có một khung cửa đá chắn đường, còn có người đứng canh gác ở đó, hai gã đệ tử nói cho bọn Dương Thông biết, đây chính là Ngũ Lý Quan, cửa quan số một trên đường lên Hoa Sơn, sau đó lại có một cửa đá khác chỉ vừa đủ một người qua lọtco' tên là Hoa Thiết Môn là cửa quan số hai cũng có người canh gác. Bọn Dương Thông ngấm ngầm để ý, hai cửa đá đều cao ngất trời xanh, quả nhiên là nơi đúng với câu 'nhất phu đương quan vạn phu mạc khai', trong bụng bắt đầu phát sầu. Qua hết Hoa Thiết Môn bèn đến Mao Nữ Động, qua Vân Môn vân vân sau đó cứ thẳng hướng đi lên, bọn Dương Thông lại thấy có tảng đá khổng lồ nằm chắn trước mặt, phía dưới Thiên Xích Chướng, hai gã đệ tử lại cho biết đây là Hồi Tâm Thạch, mọi người đi hết Hồi Tâm Thạch tới dưới Thiên Xích Chướng, một nơi hiểm hóc đầu tiên, cao chừng hơn hai chục mét, có hơn 370 thang cấp, Dương Thông ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy một bên là vách đá dựng đứng, con đường nhỏ hẹp quanh co đi lên vào tận đến mây xanh, chỉ cho đủ một người đi, nơi đây cũNg có người đứng canh gác.
Qua hết Thiên Xích Chướng là đến Bách Xích Hiệp và Tiên Nhân Kiều, Bách Xích Hiệp cũNg là một nơi hiểm trở và là đường độc đạo lên Hoa Sơn, có 570 bậc thang cấp, Bách Xích Hiệp cũng có một chỗ nguy hiểm có tên là Lão Quân Lê Cấu, tương truyền là Thái Thượng Lão Quân tu luyện tu luyện năm xưa ở HOa Sơn, thấy người ta phá núi làm đường vô cùng gian khổ bèn đem con trâu của mình ra đeo bừa vào bừa dùm cho một con đường, do đó mà có tên là vậy. Qua hết Lão Quân Lê Cấu là Tiên Nhân Kiều nằm vắt ngang qua vực thẳm hun hút phía dưới, cũng là đường duy nhất lên núi, qua Tiên Nhân Kiều là ngọn Vân Đài phong của dãy núi phía bắc của Hoa Sơn, Vân Đài Phong một trái núi đứng sững lên, ba mặt là vách núi dựng đứng, chỉ có một đường vòng vèo về hướng nam ngọn núi, hình thế hiểm yếu, từ Vân Đài Phong là có thể thấy mặt núi đen sì như con rồng nằm ngang trời, đầu rồng đuôi rồng gác lên một ngọn núi, đây chính là Thương Long Lĩnh của dãy Hoa Sơn nổi danh một thắng cảnh. Lên tới Thương Long Lĩnh là tới Kim Tỏa Quan, Kim Tỏa Quan thông qua tới yết hầu của ba dãy Đông Phong, Nam Phong và Tây Phong và cũng là trọng địa của Hoa Sơn, từ nơi này còn có thể thông qua tới Ngọc Nữ Phong, giữa ba dãy núi có tòa Trấn Nhạc Cung, là một danh thắng mà cũng là trọng địa có rất nhiều đệ tử của phái Hoa Sơn trấn thủ. Triều Dương Phong ở dãy đông phong, Lạc Nhạn Phong ở dãy nam phong và Liên Hoa Phong ở dãy tây phong được gọi là Thiên Ngoại Tam Phong, cao lên tới tận mây xanh, tương truyền năm xưa tổ sư khai sáng ra phái Võ Đang là Trương Tam Phong đến nơi đây thấy ba dãy núi khí thế hùng vĩ vô cùng tấm tắc, tiếc thay núi Hoa Sơn lúc đó đã có phái Hoa Sơn sở hữu, do đólão bèn đặt danh hiệu của mình là Trương Tam Phong, sau này đổi lại thành Tam Phong (cùng âm khác nghĩa). Hai gã đệ tử phái Hoa Sơn dẫn mọi người trước tiên đến Ngọc Nữ Phong, dãy chính giữa của Hoa Sơn sở dĩ có tên là Ngọc Nữ Phong là vì tương truyền thời xưa có một ẩn sĩ tên là Tiêu Sử giỏi thổi tiêu, tiếng tiêu cảm được công chúa con vua tần là Lộng Ngọc, Lộng Ngọc bèn ra khỏi hoàng cung theo y lại nơi đây ẩn cư, do đó mà lấy tên núi là Ngọc Nữ Phong.
Đi chơi ở Ngọc Nữ Phong rồi, hai gã đệ tử lại đem bọn Dương Thông đi qua chơi ở Nam Phong, Lạc Nhạn Phong ở Nam Phong là ngọn cao nhất ở Hoa Sơn, lên tới đó là có thể nhìn hết chung quanh khắp nơi, các tao nhân mặc khách đời này qua đời khác đến đây ngắm cảnh hùng vĩ ở Hoa Sơn bất giác than ngợi không tiếc lời, tể tướng trứ danh của thời Bắc Tống là Quan Duy đến đây du ngoạn, bèn làm một bài thơ nổi tiếng về Hoa Sơn: 'Chỉ hữu thiên tại thượng, cánh vô sơn dử tề. Cử đầu hồng nhật cận, hồi thủ bạch vân đê', tả hết được cảm giác lúc ở trên đỉnh Hoa Sơn. Trên đó có một chỗ thần kỳ là Ngưỡng Thiên Trì, đạo gia còn đặt tên là Thái Ất Trì, trong hồ quanh năm chỉ có một khoảng nước rộng chừng một mét, nước tuy không sâu hơn một tấc, nhưng hạn hán không bị khô đi, mưa hoài không bị đầy tràn, xuân hạ thu đông nước hồ trong veo thấy đáy. Tổ sư gia của phái Hoa Sơn ở một bên hồ triệt ngộ ra cách vận khí trong Thái Ất huyền công nổi tiếng giang hồ, do đó mà lấy tên là Thái Ất tâm quyết. Nam phong còn có một chỗ du khách nhất định phải tới, đó chính là Thăng Biểu Đài, còn có tên là Tụ Tiên Bình, thiện nam tín nữ lại nơi đây thắp hương cầu nguyện, sau đó đốt tiền giấy ném xuống dưới vực, nhưng giấy đốt bay đầy trời không bao giờ rớt xuống, do đó mới gọi là Thăng Biểu Đài.
Từ NamPhong nhắm hướng tây bắc đi tới là đến Liên Hoa phong ở Tây phong, nơi đây là cấm địa của phái Hoa Sơn, cung Thúy Vân ở trên đỉnh là nơi cư trú của chưởng môn đời này qua đời khác, ngọn núi này thẳng đứng như bút, vách núi cheo leo, bởi vì trước cung Thúy Vân có vô số những tảng đá lô nhô rậm rạp như từng đóa từng hoa hoa sen nở rộ do đó mà lấy tên là Liên Hoa phong. Trên Liên Hoa phong còn có một tảng đá khổng lồ, chính giữa lõm sâu vào, hi'ng dáng như bị đao chém, rìu chặt, do đó mà có tên là Phủ Cách Thạch. Tương truyền thư sinh Lưu Ngạn XưƠng lên kinh đô ứng thí trên đường qua Hoa Sơn, đầu túc ở miếu Nữ Thần Tam Thánh Mẫu, thấy tượng Thánh Mẫu đẹp tuyệt trần trong lòng ái mộ bèn làm trên tường một bài thơ, Thánh Mẫu đọc bài thơ đó của y cảm thấy được một người tài hoa tuyệt thế, mặt mủi lại anh tuấn phong nhã bèn động lòng trần. Hôm sau đó, Lưu Ngạn Xương khởi trình ra khỏi miếu vì trời mây mù phủ kín bị lạc mất phương hướng, lại bị cọp bị sói rượt đuổi, trong lúc nguy cơ được Thánh Mẫu và thị nữ Linh Chi cầm Bảo Liên Đăng lại cứu, thị nữ thấy Thánh Mẫu và Lưu Ngạn Xương lưu luyến không nỡ rời, hỗ tương sinh lòng mến chuộng bèn tìm cách tác hợp, thành toàn một chuyện nhân duyên giữa người trần và tiên nữ, hai người ở Hoa Sơn trải qua một đoạn thời gian hạnh phúc tràn trề, sau đó Lưu Ngạn Xương lại lên đường lên kinh đô khảo thí. Bấy giờ Thánh Mẫu trong người đã có bào thai, Lưu Ngạn Xương bèn đặt tên cho đứa con còn nằm trong bụng là Trầm Hương, không ngờ huynh trưởng của Thánh Mẫu là Nhị Lang Thần biết được, nổi cơn thịnh nộ, bèn đem thần binh lại ngốt Thánh Mẫu xuống dưới núi Hoa Sơn. Thánh Mẫu trong núi sinh hạ Trầm Hương rồi bèn giao cho thị nữ Linh Chi nuôi dưỡng, Lưu Ngạn Xương thi đổ trạng nguyên, bèn tiếp chỉ về Minh Châu làm huyện lệnh, lại Hoa Sơn đón Thánh Mẫu mẹ con, mới biết ra bà ta đã bị giam dưới núi. Linh Chi giao Trầm Hương cho Lưu Ngạn Xương nuôi nấng, Trầm Hương lớn lên sức mạnh tuyệt luân, sau khi biết thân thế của mẫu thân bèn quyết tâm đi cứu mẹ, thế là y đi khắp nơi tìm thầy dạy võ nghệ, sau này được sự giúp đỡ của Phích Lịch Đại Tiên bèn đánh bại Nhị Lang Thần, bổ khai Hoa Sơn cứu mẹ ra, cả nhà từ đó mới được đoàn tụ. Chuyện Trầm Hương bổ núi cứu Thánh Mẫu truyền tụng lại thành một giai thoại sau này người ta mới đặt tên cho tảng đá đó là Phủ Cách Thạch. Đi du ngoạn ở Liên Hoa phong rồi, bọn Dương Thông mới xuống núi Hoa Sơn trở về lại chỗ cư trú.
Ngày hôm sau, Dương Thông và Giản trưởng lão, Lỗ trưởng lão nghỉ ngơi nguyên cả ngày đợi đến trời tối bèn mặc đồ dạ hành vào lên núi Hoa Sơn dọ thám, Liễu Thiết Sinh và bọn Tống Thanh ở dưới chân núi gần đó, chuẩn bị nếu có biến cố phát sinh sẽ xông lên núi tiếp ứng. Dương Thông dắt trong người cây ngọc tiêu của Kim Châm Thánh Thủ tặng, Lỗ trưởng lão và Giản trưởng lão cũng đổi gậy thành kiếm dắt trong người, ba người thừa lúc trời tối lẻn qua viện Ngọc Tuyền đi dần dần tới Ngũ Lý Quan, cánh cửa chỗ Ngũ Lý Quan đã được đóng lại, chung quanh vách đá cao lên tới mấy trượng, phẳng lì như kính. Dương Thông vận chân khí vào bàn tay và gót chân, triển khai Bích Hỗ Du Tường từ từ bò lên trên đỉnh vách đá, chỉ thấy gian phòng bên cạnh đèn đuốc sáng choang, trong phòng có bảy tám người đang nói chuyện ồn ào, thỉnh thoảng còn có tiếng thôi quyền hò hét. Dương Thông thả dây thừng xuống từ từ kéo Lỗ trưởng lão và Giản trưởng lão lên, ba người nằm yên trên đỉnh vách đá tra xét một hồi, thấy người trong phòng không ai hay biết gì, bèn nhẹ nhàng nhảy xuống qua bên kia rồi nhảy lên mái nhà, ba người như ba con chim lớn thoáng chốc đã vụt biến vào màn đêm, đám người kia nằm mộng cũng không ngờ được rằng có người leo lên được tới đỉnh vách đá cao cả mấy trượng kia. Ba người lần theo ánh sáng yếu ớt của cây quẹt lữa mò mẫm tới Hoa Thiết Môn, hôm qua ba người đã quan sát kỹ lưỡng đường lối địa hình lên Hoa Sơn, thêm vào đó khinh công bản lãnh của ba người đều đã đến mức tuyệt đỉnh cao thủ do đó một đường đi thẳng lên không có gì là trở ngại.
Cánh cửa đá ở Hoa Thiết Môn cũng đã khép chặt, chung quanh cửa đá là vách đá dựng ngược lên lởm chởm như đao chém rìu chặt, cao hơn mười mét, Dương Thông lại vận nội lực dùng Bích Hỗ Du Tường bò lên trên đỉnh. Bên trong Thiết Hoa Môn cũng như thế, mười mấy người ngồi trong nhà gác thôi quyền đánh đáo uống rượu làm vui, chính đang náo nhiệt cực kỳ, Dương Thông lắng nghe một hồi thấy quanh quẫn cũng chỉmu+ời lăm người và không ai vũ công trội hẳn lên những người khác. Thế là Dương Thông bèn thả giây thừng xuống cho Giản trưởng lão lên trước rồi tới Lỗ trưởng lão, lão trèo lên sơ ý để rớt một hòn đá nhỏ xuống, trong đêm tối thanh âm vang dội hơn hẳn bình thường và hòn đá dội xuống vào trước cửa. Đám người đang ồn ào huyên náo trong phòng đột nhiên im lặng đi, vài người xông từ trong phòng ra, có người mở miệng quát lớn:
- Ai đó ? Bò ra cho chúng ta xem!
Dương Thông giật thót mình nghĩ thầm:
- Hỏng rồi! Đã bị bọn chúng phát hiện ra!
Đang chính nhảy xuống, Lỗ trưởng lão và Giản trưởng lão kéo tay y hụp người vào bóng tối, ba người nằm sát người xuống vách đá trên đỉnh đầu không động đậy. Đám người kia đốt đèn lên xăm soi một hồi, miệng thì không ngớt la ó:
- Mau mau ra đây! Chúng ta đã thấy các ngươi! Còn không ra chúng ta sẽ phóng ám khí đó!
Dương Thông bấy giờ mới biết lúc nãy bọn họ chỉ dùng kế Đả Thảo Kinh Xà tính đẩy mình ra, trong lòng bất giác toát mồ hôi lạnh, nếu không phải Giản, Lỗ hai vị trưởng lão kinh nghiệm đầy mình, thì mình đã trúng phải kế bọn họ dễ dàng.
Đám người kia tìm quanh quất một hồi không thấy có gì, một người nói:
- Ngũ sư huynh, e là con chồn hay con chim ăn đêm làm rớt hòn đá xuống sao đó ? Cánh cửa đá đóng kín mít, vách đá dựng đứng cao ngất ngay cả khỉ cũNg khó mà bò lên, ai mà bò lên được đó ?
Một số người lên tiếng phụ họa thế là cả đám lại quay về phòng, một hồi sau lại ồn ào náo nhiệt hò hét lên như cũ. Dương Thông thấy bọn họ lại quay về với trò chơi bèn cẩn thận thả hai vị trưởng lão xuống, ba người rón rén đi vòng qua gian nhà mò mẫm về hướng Thiên Xích Chướng. Thiên Xích Chướng là quan ải thứ ba của Hoa Sơn, phía trên có hai tên đệ tử cầm đèn đi qua đi lại canh gác, ba người đi dè dặt lại thềm đá rồi bò lên, gần lên đến gần đỉnh bèn nằm phục xuống sau vách đá. Dương Thông nhặt lên mấy hòn đá nhỏ nhắm hai người kia ném lại, y cách hai người đã gần mà ném tới rất chuẩn xác, tuy trong bóng tối nhận huyệt không sai hào ly, hai người kia còn chưa kịp mở miệng ra la đã ngã lăn xuống đất. Ba người nhanh như chớp nhảy lên trên, Dương Thông lại điểm thâm vào mấy chỗ huyệt đạo hai gã, lột y phục của họ ra, dấu cả hai vào sau một vách đá, Dương Thông và Lỗ trưởng lão mặc đồ hai gã vào, ba người xách đèn lồng đi qua Lão Quân Lê Cấu đến trước Kim Tỏa Quan.
Lê Khắc Tưởng dịch