Trang sinh hoạt của Cựu Giáo Sư và Học Sinh trường Trung Học Cường Đễ Qui Nhơn

Tản mạn về Tiếng Việt

1. Có gì mâu thuẫn không khi ở Mỹ một thời gian thì lại đâm ra cảm thấy buồn khi đọc báo Việt in ấn xuất bản trong nước như Tuổi Trẻ, Thanh Niên,… mà cứ dùng nhiều tù tiếng Anh như: “tuổi teen”, ăn mặc rất “hot”, M.C này, M.C nọ,… ôi đủ thứ?

Buồn có phải vì nổi máu tự ái dân tộc là thấy tiếng Việt của ta quá nghèo nàn, khiến những người viết báo, viết văn này phải vay mượn tiếng của người nước ngoài mới diễn đạt được ý? Hay buồn vì thấy chính người Việt ở trong nước mà đua nhau chê tiếng Việt?

Thật ra tiếng Việt tuy còn nghèo từ ngữ về khoa học, kỹ thuật, nhưng rất phong phú từ ngữ để diễn tả tình cảm và cũng có thừa từ để diễn ý mà các từ Anh Mỹ trên đây chuyển tải. Vậy tại sao các phóng viên, nhà báo, nhà văn, đặc biệt các Tổng biên tập các báo, đài truyền thanh, truyền hình ở Việt Nam lại chê của gia bảo cha ông để lại mà đi vay mượn của người ta khiến cho các câu viết, lời nói lai căng, có vẻ thiếu tinh thần và lòng tự trọng dân tộc, cứ tự nhiên phát triển như cỏ dại sau cơn mưa?

Hiện nay, một số người gốc Việt viết văn Việt ở nước ngoài như Mỹ thường hay chen một số từ tiếng Anh, tiếng Mỹ vào câu văn, nhất là lời thoại. Lý do có nhiều: Có thể họ thật sự thiếu vốn tiếng Việt, cũng có thể họ muốn làm dáng để mọi người đọc biết ta đây là Việt kiều, hiểu biết sâu sắc văn hóa bản địa! Viết có phong cách như người bản xứ, nhưng cũng có thể họ muốn câu khách vì độc giả của họ là những người Việt đang sinh sống ở nước ngoài dù tiếng Anh không đủ tinh thông nhưng vẫn tỏ ra rất sính nói chữ!

Nhưng dẫu sao thì những người viết văn này cũng đang ở nước ngoài và viết chủ yếu cho người Việt ở nước ngoài, thì họ viết thế nào kệ họ, cũng chẳng hại gì cho văn hóa Việt Nam.

Còn những phóng viên, những nhà báo, nhà đài ở trong nước viết tiếng Việt cho người Việt Nam đọc, mà cớ sao lại viết như thế? Nếu có viết để cho người Việt ở nước ngoài hay cho người nước ngoài đọc thì lại càng phải dùng một văn phong thuần Việt để họ học tập chứ! Đặc biệt là những phương tiện truyền thông như báo Tuổi Trẻ, Thanh Niên v. v… những đài phát thanh, truyền hình đang có ảnh hưởng rất lớn đến giới trẻ Việt Nam, thì với cách dùng từ như thế, họ có vô tình cổ xúy cho lớp trẻ Việt Nam hiện đại coi thường tiếng Việt không? Coi thường văn hóa Việt Nam không? Nếu đúng như thế thì lấy gì và làm sao bồi dưỡng lòng yêu quê hương đất nước, để thanh niên có đủ dũng khí chống ngoại xâm như lớp cha ông trong mấy nghìn năm lịch sử.

Vẫn biết Việt Nam cần phải hội nhập với thế giới. Hội nhập nhưng phải giữ bản sắc, chọn lọc hấp thu lấy cái tinh hoa của thế giới để làm phong phú cho mình, chứ không phải nhắm mắt bắt chước người ta để bị hòa tan và cuối cùng mất bản sắc, trở thành nô lệ cho người ta. Chính ở nước ngoài một thời gian mới dễ thấy rõ tiếng Việt lả di sản rất quý giá của cha ông mà người Việt cần phải bảo vệ, tất nhiên phát triển theo thời đại, nhưng phải giữ gìn cho trong sáng, bởi vì ai cũng biết là có rành tiếng Việt mới hiểu được văn hóa Việt, hiểu lịch sử Việt, hiểu được công đức của cha ông, xương máu của biết bao anh hùng, chiến sĩ từ mấy nghìn năm nay tạo dựng ra giang sơn nước Việt Nam ngày nay. Sự hiểu biết ấy là tiền đề của lòng yêu nước, yêu quê hương, mới thúc đẩy tham gia xây dựng và bảo vệ đất nước. Thiếu hiểu biết ấy thì không thể có được tình yêu quê hương đất nước phát xuất từ đáy lòng được.
Bằng chứng cụ thể có thể thấy được qua việc nhìn vào tâm hồn của những con em người Việt đang ở nước ngoài.

Hiện nay, con em người Việt có một số lượng đáng kể ở khắp nơi trên thế giới, từ Đông Âu tới Tây Âu, Mỹ, Canada, Úc… và trong số đó có khá nhiều người được học hành thành đạt. Nhưng chúng ta có biết trong tâm hồn lớp thanh thiếu niên này có tình cảm đối với Việt Nam, là quê hương của họ như thế nào không? Thực tế là một số thanh thiếu niên này đã được gia đình khuyến khích về thăm đất nước theo những chuyến du lịch, được hướng dẫn thăm viếng, được nghe thuyết minh bằng tiếng Anh nhiều di tích lịch sử, nhiều địa điểm văn hóa, dự những lễ hội văn hóa truyền thống từ Bắc chí Nam. Nếu có ai hỏi họ có thích, có yêu đất nước Việt Nam, quê hương của cha ông họ hơn khi chưa trở về không? Câu trả lời thường rất phũ phàng là “không”! Lý do không phải họ là những kẻ vô tình, bạc bẽo, thiếu văn hóa mà đơn giản là vì họ không hiểu rành tiếng Việt, không hiểu văn hóa Việt, không biết lịch sử Việt, nên không cảm thấy được chất liệu của cái tổng thể Việt Nam trong máu thịt của họ, mà họ chỉ thấy cái hình hài bên ngoài của những di tích, những cảnh quan ở đất nước Việt Nam, mà những hình hài này ở nước ta làm sao to lớn, nguy nga, hấp dẫn hơn những hình hài ở năm châu bốn bể mà họ đã biết. Chẳng hạn những cung điện của các vua nhà Nguyễn ở Huế làm sao so với những cung điện vua chúa ở Trung Quốc, v.v… Lớp thanh thiếu niên này chưa có sợi dây ràng buộc máu thịt với Việt Nam. Sợi dây đó hình thành trước hết là nhờ hệ thống tiếng Việt rất phong phú diễn tả mối quan hệ từ gia đình ra xã hội. Như các từ: cha, mẹ, ba, má, ông, bà, anh chị, em, chú bác, cô dì, dượng, thầy, cô; thưa cha con.., thưa mẹ con…, thưa ông cháu…, thưa bà cháu…, thưa thầy con (hay em)… ở nước ngoài như Mỹ thì chỉ có “I” với “You” tuốt tuột mà thôi. Kinh nghiệm của nhiều cha mẹ Việt ở Mỹ cho biết rằng, những con trẻ gốc Việt nào biết nói rành tiếng Việt với những từ ngữ như “thưa cha (ba), con…” hay “thưa mẹ (má), con…”, “thưa ông (bà), con (cháu)…” thì dễ dạy hơn, biết nghe lời khuyên của cha mẹ, ông bà hơn, còn những đứa không nói được tiếng Việt, chỉ biết nói “I” với “You”… Đặc biệt khi những cô cậu bé này không vừa ý, nổi xung lên thì khẩu khí “I” với “You” trong đối thoại với cha mẹ chúng y như khẩu khí chúng nói với bạn bè hay kẻ xa lạ (là “tao”, “mày”), và có khi đe dọa cha mẹ với câu “tao kêu cảnh sát bắt mày!”. Đó là một trong những cái “nhức đầu” của không ít cha mẹ người Việt ở Mỹ!

Nhưng ở trong nước ta, qua những tù ngữ phong phú đó, mối liên hệ trong gia tộc được nâng lên thành những tình cảm khó quên từ những họp mặt trong gia đình như chạp, giỗ, tiệc tùng, lễ tết, cưới hỏi, tảo mộ ông bà, nhà thờ họ tộc. Rồi ra xã hội từ cái đình làng, cái miếu xóm, cây đa đầu làng, giếng nước, bờ ao, ánh trăng rằm nơi vườn nhà, nơi vườn chùa làng… với biết bao ân tình của nơi chôn nhau cắt rốn… Rồi tiếng Việt qua kho tàng ca dao tục ngữ, qua thơ văn, qua lịch sử dựng nước giữ nước, qua đền đài kỷ niệm từ cha ông, qua địa lý đất nước, con người, di tích… Tất cả những thứ đó tạo nên sợi dây bền chặt, nối con người Việt Nam với quê hương, với cội nguồn tổ tiên, dân tộc, mà nhờ đó yêu đất nước, yêu quê hương. Với mối dây sắc son ấy, dẫu đi ra nước ngoài, thấy những cái vĩ đại hơn, nguy nga hơn, nhưng vẫn tỉnh mà biết những cái đó là của người ta, không có mối dây “tâm linh” trong máu thịt của mình, nên tự mình cảm nhận không thể nào yêu hơn cái tuy thô sơ, mộc mạc của quê hương, nhưng gắn bó máu thịt với mình qua bao năm tháng và gắn bó tâm linh với cha ông từ bao đời để lại.

Hẳn là nhiều người đã báo động cái nguy cơ lạm dụng tiếng nước ngoài trong một số bài báo. Chẳng hạn như bài: Lòng tự trọng dân tộc ở trong ngôn ngữ, trên báo Hồn Việt, ( 12/2009). Nhưng tiếng nói thiết tha của những vị ấy dường như chỉ là cơn gió thoảng qua… cho mát một chút, cho vui một chút với những người đồng cảm với tác giả mà thôi, chứ có ai nghe đâu. Phóng viên các báo, các đài phát thanh, truyền hình ngày đêm cứ tự ý tha hồ mà “teen”, “hot”, M.C…, khiến cho giới trẻ theo đó học đòi, tạo ra biết bao từ “quái” trong tiếng Việt đến nỗi một ông thầy dạy Vật lý muốn hướng dẫn học sinh học Vật lý bèn soạn bài theo nhạc lập với những từ “quái,” như “wá” thay cho “quá”,… (Theo Vietnamnet ngày 24/03/2010: Bùi Như Lạc – giáo viên dạy Vật lý trường THPT Nguyễn Du (Q.l0, TP.HCM) giãi bày với Vietnamnet sau khi bài tập của thầy được đăng tải trên các diễn đàn gây xôn xao cư dân mạng).

2. Ôi tiếng “quá” tuyệt vời!

Tôi đã biết bao lần trên những chuyến đi đây đi đó, nhiều chuyến xuyên lục địa, đại dương với hành trình dài trên 20 giờ bay mà chỉ sử dụng “I”với “You”, còn những từ ngữ Việt Nam rất phong phú diễn tả nhân xưng thích hợp trong từng ngữ cảnh thì nằm im trong tâm tưởng; tôi vẫn tự hào là tiếng Việt của dân tộc mình rất phong phú trong việc diễn tả các cung bậc của tình cảm và đôi lúc bỗng thèm được nghe lại một tiếng “qua” của nơi chôn nhau cắt rốn!

“”Hôm qua qua nói qua qua mà qua không qua. Hôm nay qua nói qua không qua mà qua qua!”

Đó là câu “chọc quê” của những bạn bè thời đi học dành cho tôi khi biết tôi xuất thân từ miền quê Quảng Nam mà tiếng “qua” nhiều khi được người lớn tuổi hơn tự xưng trong lúc nói chuyện với người nhỏ tuổi, khi hai bên không có quan hệ huyết thống.

Hồi còn đi học trung học, bị chọc như thế, tôi cảm thấy bực mình vì bạn bè có ý chê mình xuất thân từ chốn quê mùa mộc mạc. Nhưng càng về sau, khi đã ra làm việc, đi đây đi đó, thì tôi lại cảm thấy rất tự hào về những phương ngữ mang đậm Quảng Nam tính như tiếng “qua” mà tôi cho rằng rất độc đáo, không phải địa phương nào ở Việt Nam cũng có từ như thế. Còn trong văn hóa Anh – Mỹ với hai từ “I” và “You” thì với sự hiểu biết hạn hẹp của tôi, hẳn là tuyệt đối không thể dịch ra được? Ôi tiếng “qua” của quê tôi nói lên nghe sao mà thân thương, chan chứa tình cảm bao dung, rộng lượng, tốt bụng của một người tự nhận là đàn anh nói với đàn em dù trước đó có thể chưa bao giờ biết nhau. Và cũng trên muôn dặm hành trình của mình, trong nền văn hóa chỉ với hai từ “I” và “You”, tôi không thể nào nghe lại được tiếng “qua” tuyệt vời ấy và cũng không thể dùng tiếng “qua” hay diễn dịch tiếng “qua” cho người ngồi bên mình.

Tiếng Việt ơi? Việt Nam ơi? Quảng Nam ơi! Ta mãi mãi yêu thương và quay về.

  
Lê Tự Hỷ
Atlanta, Hoa Kỳ

Nguồn: http://www.chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Ngon-Ngu/Tan_man_ve_Tieng_Viet/

  

   Số lần đọc: 3605

20 BÌNH LUẬN

  1. Tiếng Việt
    Chào anh Lê Tư Hỷ,

    Bài viết của anh có nhiều ý tưởng rất thuyết phục. Tiến mới vừa đưa hai cháu về VN thăm gia đình và muốn chia sẻ với anh và bạn bè chút kinh nghiệm của riêng mình.

    Hai cháu đã rất yêu thích VN và muốn về thăm trở lại dù cái nắng nung người quá khắc nghiệt ở quê hương và nhất là miền trung mình đã làm hai cháu khó khăn lắm mới chịu đựng nỗi.

    Đúng như anh diễn tả, nếu con trẻ có biết nói tiếng Việt, biết đọc tiếng Việt thì cảm nhận yêu thương và gắn bó đến dễ dàng hơn bởi vì tình cảm đơm hoa kết trái từ sự giao tiếp qua về và thêm vào đi đến đâu chúng cũng có thể đọc và hiểu chút ít tiếng Việt. Cái tình giữa bà con và người thân trong những câu chuyện qua về bằng tiếng Việt, nhất là giữa anh chị em bà con cùng trang lứa đã làm hai cháu muốn trở lại quê hương vào hè năm tới(nhưng Tiến nghĩ là mình sẽ không làm nỗi :=( ) và Tiến nghĩ đó là một món quà và kinh nghiệm quí giá mà hai cháu đã có được trong chuyến đi vừa qua. Và may mắn của Tiến là hai cháu biết chút ít tiếng Việt.

    Tiến thành thật cảm ơn sự nhận xét của anh. Anh làm Tiến nhớ đến câu nói này không nhớ là của ai “Tiếng Việt còn, quê hương còn”.

    KT

  2. Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam!
    “Giữ gìn Tiếng Việt trong sáng”: một chủ đề rất hay, XP tôi ấp ủ đến nay mà chưa viết được. Truyện Kiều còn tiếng ta còn, tiếng ta còn nước ta còn (Phạm Quỳnh). Nhưng trước mắt xin góp lời bàn với anh Hỷ (không dám dùng từ comment à nha!).

    1/ Qua là tôi, phát âm Triều Châu, phổ biến ở tỉnh Bạc Liêu nơi có nhiều người Triều Châu (Tiều) lập nghiệp (Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu). Ngộ là tiếng Quảng Đông, Ụa là tiếng Bắc Kinh đều chỉ tôi. Về Bạc Liêu, Cà Mau còn nghe nói Chế (chị), Củ (cậu) đều là tiếng Tiều. Bạn nghe từ “chợ búa” tưởng là tiếng thuần Việt, không phải đâu! vậy búa là gì tại sao chợ lại đi với búa? Đó là từ “thị phố” của Hán Ngữ mà người Việt ta còn giữ cách phát âm có từ đời Đường. Loại từ như vậy có nhiều trong tiếng Việt. Ví dụ tim là tâm, tìm là tầm, bùa là phù, múa là vũ, chúa là chủ, cờ là kỳ, thơ là thi … mà ta dễ lầm tưởng là tiếng thuần Việt.

    2/Tiếng Việt khó nhất là dấu âm (huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã) và nhân xưng. Nhân xưng tiếng Việt biểu cảm rất mạnh: Ví dụ: vợ hỏi chồng “Ông” đi đâu bây giờ mới về? (không bằng lòng), chồng trả lời: “Mầy” hỏi làm gì? (có hơi men rồi, muốn nổi cơn điên, coi chừng ra tay thình lình). Về tính chuẩn mực tiếng Việt không so sánh được với các ngôn ngữ phổ thông trên thế giới như Anh, Hoa, Tây Ban Nha, Pháp …. Nhân xưng nặng tính biểu cảm nhưng thiếu tính chuẩn mực và nhiều khi là vật cản cho sự phát triển cá nhân và tập thể ( thưa thầy con, thưa thầy em, thưa thầy tui …rối tung cả lên chứ được gì? Sếp bảo nhân viên: em làm giúp anh (OK), mày làm cho tao (NO), thế là toi việc!).

    3/ Tiếng Việt phi logic: “Tí có nhà không bác? Nó đi công chuyện” (đã đi chưa hay còn ở nhà, đang đi, sắp đi, đi lâu mau). Không có mốc thời gian nào cả.

    4/ Địa tầng ngôn ngữ Việt gồm 3 lớp:

    Lớp mặt du nhập từ Tây phương: VD-xích, líp, lốp,ô tô, biu đing, chát chít, đốc tờ, teen, sô, net, hot, hip- hop… quá trình đào thải đồng thời diễn ra với quá trình du nhập (đốc tờ, moa, toa, đắc co… bây giờ đã hết dùng)

    Lớp giữa là từ gốc Hán và từ Hán-Việt: chiếm đa số. VD: nt1/… cô, chú, bác, ông bà nội ngoại đều là từ gốc Hán. Từ Hán-Việt rất nhiều trong văn viết.

    Lớp tận cùng là từ Việt cổ: vợ (gốc là đỡ), chồng (gốc là chống), cưới (gốc là cỡi), o (cô), trốc (đầu), chộ (thấy), cá, chó (từ Hán cẩu phát âm cậu), (nhưng mèo thì chưa chắc vì Hán có từ miao, heo thì không phải vì heo là từ gốc Hán -hy- phát âm đời Đường: heo), núi, cháy, chảy (nhưng sông thì chưa chắc vì rất gần với từ giang-jiang của Hán ngữ), rõ rệt, rõ ràng (rệt là ngọn lửa ban đêm, ràng là vật dụng để nấu than củi)… đi, lại (có thể gốc từ Hán khứ lai phát âm qi, lãi).

    Ôi, “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam” là thế!

    XP tôi đang nhờ một ông thầy dạy Hán- Nôm(thầy cũng từ gốc tiếng Hán sư-shi) chỉ giáo. May ra có chút gì để nói thêm về Tiếng Việt. Mong nhận được nhiều cò men!ý quên, Lời bàn.

  3. Một chút suy nghĩ
    Một chút suy nghĩ

    Khi ông LTH buồn khi đọc báo bên nhà thì Thùy rất buồn khi đọc bài viết của ông ta.Điều làm Thùy buồn nhiều nhất là ông LTH không biết vô tình hay cố ý đã chối bỏ sự góp phần của người Việt HN trong công việc bảo tồn và góp phần xây dựng phát triển văn hóa Việt Nam . [i]” Nhưng dẫu sao thì những người viết văn này cũng đang ở nước ngoài và viết chủ yếu cho người Việt ở nước ngoài, thì họ viết thế nào kệ họ, cũng chẳng hại gì cho văn hóa Việt Nam.”[/i]

    Thỉnh thoảng Thùy có viết ở đây , các anh chị có đọc thì chắc cũng biết rằng tiếng Việt của Thùy rất yếu , chủ yếu là ham vui và ham học hỏi, nhưng Thùy nghĩ rằng chúng ta không thể so sánh sự sâu rộng của một ngôn ngữ này với một ngôn ngữ khác, bỡi lẽ sự so sánh này không có cơ sở! Hơn thế nữa, một ngôn ngữ nào đó đều dính liền vào dân tộc của họ, phản ảnh truyền thống, tập tục…Cho nên ta không thể nói tiếng Việt thâm thúy hơn tiếng Anh hay nguợc lại. Có những tiếng Việt chúng ta không thể dịch ra tiếng Anh hay ngược lại, nếu dịch ra được thì ý nghĩa chưa hẵn đã sát cái nghĩa nguyên thủy của nó.

    Ngày nay, tiếng Anh được xem như là ngôn ngữ hàng đầu trên thế giới trong phạm trù trao đổi, dĩ nhiên có nhiều lí do để đưa đến điều ấy, một trong những lí do đó là tiếng Anh thường lấy tiếng của người khác để làm tiếng của mình ( dùng lâu thành quen ) . Ví dụ như hầu hết người Bắc Mỹ không dùng ” beef noodle ” mà dùng chử ” Phở ” của VN chúng ta : ” I like to eat PHO “. Thùy xin đánh cuộc rằng không bao lâu nữa từ điển tiếng Anh sẽ có chử PHO!

    Theo Thùy thi bất kì một ngôn ngữ nào cũng đều có hai thể loaị khác nhau : Văn nói và Văn viết. Trong Văn nói có lắm lúc câu kéo lủng củng, miễn sao người nghe hiểu được là đã đạt tiêu chuẩn, còn Văn viết thì phải đúng mẹo luật qui định. Khi Thùy viết rằng “Có người mắng yêu Thùy là viết tiếng Việt quá liberty”, tất nhiên Thùy và người nói hiểu được nhau chứ không phải dịch một câu đúng mẹo luật từ tiếng Anh sang tiếng Việt hay ngược lại.

    Tóm lại, văn nói là nói theo thói quen . Ví dụ một trẻ con VN ở HN nói rằng ” Hey! you muốn eat Pho không? ” hoặc là hôm nay MC Nguyên Thùy sẽ điều khiển chương trình ca nhạc …Thùy ở nước ngoài Thùy không thấy gì sai.

    Trong Văn viết cũng chia làm nhiều đoạn, có đoạn viết về đối thoại, tác giả có thể lồng một vài danh từ của ngôn ngữ khác vào việc đối thoại thì không có gì gọi là sai trái.

    Thùy không biết ông LTH là ai, nhưng mà Thùy nghĩ ông hơi khắc khe trong bình phẩm. Ngoài sự khắc khe ấy ông LTH đã mắc một lầm lẫn lớn giữa I,YOU và QUA. I và YOU mang tính đại chúng còn QUA chỉ là ” slang ” ( Thùy không biết dịch chử slang sang tiếng Việt )…và I và YOU không thể hiểu là ” mày” , ” tao “!

    Cuối cùng, Thùy nghĩ rằng mình nên bắt chước Anh ngữ, hãy thêm vào những chử dùng hằng ngày đã thành thói quen vào ngôn ngữ VN để ngôn ngữ này càng ngày càng phong phú thêm…

    Cho dù Thùy vốn dốt tiếng Việt nhưng Thùy vẫn ham viết…Vì ham vui và ham học hỏi.

    Thân ái chúc mọi người một tuần làm việc vui vẻ…

  4. RE: Tản mạn về Tiếng Việt
    Bạn Nguyên – Thùy và bạn Xuân Phong thân mến!

    Đại khái tôi “vâng dạ” với những ý kiến ở trên của các bạn.

    Dưới đây là một vài thiển ý tương tự.

    1. Văn nói khác với văn viết (tục ngữ có câu: [i]viết là đi, nói là chạy[/i]; [i]chạy[/i] thường “lỏng lẻo” hơn [i]đi[/i] ). Mỗi giới, mỗi ngành nghề, mỗi hoàn cảnh có cách biểu đạt tiếng Việt theo kiểu của mình. Điều quan trọng người nói / viết [b]phải rõ[/b] mình đang nói / viết gì và nói / viết với ai ?

    2. Ngôn ngữ / sinh ngữ có sức sống bền bỉ vì nó “biết vay mượn / cho-nhận” và tương tác (đặc trưng của ngôn ngữ là vậy). Không thể nào đánh giá được một hiện tượng sinh động như ngôn ngữ mà chỉ có thể xem xét việc sử dụng ngôn ngữ đó như thế nào mà thôi. Vì vậy đừng quá bận tâm về sự trong sáng và giàu đẹp của tiếng Việt mà nên xét nét tới cách ứng xử của chúng ta đối với tiếng Việt ra làm sao (Giống như một nhà môi trường đã nói: Bạn đừng âu lo đến sự tồn tại của trái đất mà hãy bận tâm tới cách cư xử của bạn đối với trái đất để còn song tồn với nó)

    3. Có quá nhiều dấu thanh trong chữ viết tiếng Việt. Đặc biệt, hai dấu [i]hỏi – ngã[/i]. Các phụ âm đầu [i]s-x, d-gi, ng-ngh[/i], phụ âm cuối [i]t-c-ch, n-ng[/i] cũng vậy. Thật ra những phân biệt chính tả trên đây chỉ đặc tả gần đúng cách phát âm một số vùng miền VN thôi, không thể bao quát hết từ nam chí bắc… Phải chi thoạt kỳ thủy các nhà lập chữ Quốc Ngữ đừng “ban phát” thừa thãi quy định chính tả như vậy thì con cháu đỡ khổ biết bao. Trong khi đó nhu cầu viết cần thêm mấy chữ cái [i]f, w, z[/i] thì lại thiếu. Thay [i]f[/i] cho [i]ph[/i], [i]w[/i] cho [i]qu[/i] theo thiển ý cũng có lý chứ ? Hiện các cơ quan có trách nhiệm còn đang đắp chiếu ngủ thì các bạn trẻ @ đang tự phát làm thay theo cách của họ. Trúng trật thì chưa bàn. Nhưng họ đã làm một việc nên làm. Thiết nghĩ các bậc thức giả nên xắn tay áo giúp sức hơn là rầy la trách cứ.

    4. Đại từ nhân xưng về quan hệ bà con láng giềng ở tiếng Việt quá phong phú (!), quá rạch ròi ngôi thứ một cách hình thức (có vẻ như nó là hệ quả của một thời gian dài bị trị hay của một thời kì kinh tế phồn thịnh ở VN: [i]phú quý sinh lễ nghĩa[/i] ?). Vô tình sinh ra hai đối tượng bất bình đẳng trong khi giao tiếp [b]kẻ lớn[/b]: áp đặt; [b]kẻ nhỏ[/b]: thiếu tự tin. Mà mối quan hệ này đã làm nghèo đi tính dân chủ trong một định chế xã hội vốn nhiều hệ lụy như ở VN. Dưới đây là một liên tưởng tương tự về nhân xưng không phải là “You & I” như VN:
    Vì không biết Nguyên – Thùy là ai (anh, chú bác hay cụ…) nên tôi vô tư bàn luận với Nguyên – Thùy. Chứ giả như biết trước mặt tôi đây là vị giáo sư già khả kính Nguyên – Thùy thì tôi sẽ vái mấy vái, kính nhi viễn chi ngay. Lúc ấy thì còn gì là thú vị trong cuộc luận bàn ẩn danh này nữa 🙂

    Nhân đây cũng xin phép được nhắc nhỏ bạn Nguyên – Thùy mấy chút:

    1.[i]Qua[/i]: đại từ nhân xưng, ngôi thứ nhứt. Là phương ngữ / khẩu ngữ, không phải là slang (tiếng lóng): [i]Người chồng dùng xưng với vợ hay người lớn xưng với người nhỏ tuổi vai em, thân mật[/i].

    2.Nguyên – Thùy viết: “nên bắt chước Anh ngữ, hãy thêm vào những chử dùng hằng ngày đã thành thói quen vào ngôn ngữ VN để ngôn ngữ này càng ngày càng phong phú thêm…”

    Đề nghị trên là thừa và cũng không ai có quyền làm cái việc “thêm” này. Như đã viết ở trên, tự thân một ngôn ngữ nó biết phải làm gì để tồn tại: tương tác để vay mượn, cho-nhận. Do vị trí địa lý đặc biệt hấp dẫn với các cường quốc, nên từ xưa tới nay Việt Nam luôn được các bác đàn anh “chiếu cố”. Nên tiếng Việt có đầy đủ dấu ấn Tàu, Tây, Mỹ, Cham-pa, Cao Miên (hai trường hợp sau là khác)…lưu vết trên nó. Nhiều và “lưu cữu” đến nỗi các nhà ngôn ngữ không thể rạch ròi đầu là từ [i]Việt cổ[/i] đâu là từ [i]Việt lai[/i]. Theo tôi đây là điều may / đáng mừng trong cái rủi (chữ Nôm, chữ Quốc Ngữ được hình thành trong rủi ro này). Số lượng từ vựng Việt hiện nay chưa sánh bằng từ vựng Anh-Mỹ nhưng chắc chắn ngày càng phong phú. Tóm lại tiếng Việt là một ngôn ngữ trẻ, biến động và đầy sức sống.

    3.Bạn thường viết [b]chử[/b] với dấu hỏi. Lẽ ra phải là [b]chữ[/b] với dấu ngã.

    4.Còn [b]bỡi[/b] trong [i]bởi lẽ, bởi thế, bởi vì[/i]…, thì luôn luôn là [b]bởi[/b], dấu hỏi.

    Nếu [i]ham vui và ham học hỏi[/i], thì bạn cũng đừng ưu phiền với mấy sự cố nho nhỏ ở trên (âu cũng là chuyện thường ngày thôi)

    Thân mến !
    KXH

  5. RE: Tản mạn về Tiếng Việt
    Mình thú vị với suy nghĩ dưới đây.

    [i]Đại từ nhân xưng về quan hệ bà con láng giềng ở tiếng Việt quá phong phú (!), quá rạch ròi ngôi thứ một cách hình thức (có vẻ như nó là hệ quả của một thời gian dài bị trị hay của một thời kì kinh tế phồn thịnh ở VN: phú quý sinh lễ nghĩa). Vô tình sinh ra hai đối tượng bất bình đẳng trong khi giao tiếp kẻ lớn: áp đặt; kẻ nhỏ: thiếu tự tin. Mà mối quan hệ này đã làm nghèo đi tính dân chủ trong một định chế xã hội vốn nhiều hệ lụy như ở VN.[/i] (KXH)

    Vì thế mình nghĩ, để có một nền dân chủ thật sự không là chuyện dễ. Nó đòi hỏi một thách thức to lớn trong sự tương quan bình đẳng giữa con người với con người, trước tiên là ngay trong gia đình vì gia đình là đơn vị tạo nên xã hội.

    Một chút chia sẻ những suy tư.
    KT

  6. Gởi anh KXH
    Trước hết, Thùy cảm ơn anh đã chỉ cho Thùy mấy dấu ” hỏi-ngã ” nhé.
    ” Vì không biết Nguyên – Thùy là ai (anh, chú bác hay cụ…) nên tôi vô tư bàn luận với Nguyên – Thùy. Chứ giả như biết trước mặt tôi đây là vị giáo sư già khả kính Nguyên – Thùy thì tôi sẽ vái mấy vái, kính nhi viễn chi ngay. Lúc ấy thì còn gì là thú vị trong cuộc luận bàn ẩn danh này nữa “

    Anh KXH, Thùy có ẩn danh đâu nhé, nếu anh nghĩ như vậy, xin được phép ” Tản mạn về Nguyên Thùy ” một tí xíu , được không? nhưng đọc thì không được cười đấy nhé.
    Thùy tên thật là Trần Thị Khánh Thùy, sỡ dĩ có chử Khánh vì Mẹ Thùy là người Khánh Hòa.
    Ông xã tên Nguyên..nên mới có tên Nguyên -Thùy ( không bà con họ hàng với Nguyên Sa hay Nguyên Hạ 🙁 ).

    Lúc còn nhỏ Thùy thuộc loại con nhà khá giả nên học hành không đến nơi đến chốn, trầy da sứt trán mới được gọi là cô Tú Thùy!Thời bấy giờ, con gái ở thành phố, phần đông lên ĐH chỉ là cái ” mốt ” để kiếm chồng. Thùy chưa kịp lên ĐH thì ông xã đã vớt Thùy rồi, khỏi kiếm chồng luôn ( có lẽ vì vậy mà Thùy không biết ông LTH là ai ).

    Thùy không có học ở Qui Nhơn chỉ theo ông xã vào đấy . Thùy có hình ở lăng Tây Sơn, hình Thùy ở Gềnh Rán không thua mấy hình của Nguyên Hạ post mấy hôm bữa đấy nhé. Thùy sống ở Qui Nhơn một mình, ông xã làm việc ở Phù Cát, thỉnh thoảng mới về, hồi ấy, Thùy thường một mình ra bờ biển QN hóng gió , nhìn mấy cô trường Nữ thấp thoáng trên đường Nguyễn Huệ Thùy nhớ Huế, nhớ lúc còn đi học, Thùy đã than thầm : ” Ngày mai trong đám xuân xanh ấy, có kẽ theo chồng bỏ cuộc chơi “. Thùy cũng thường một mình ngồi ở café Dung. Thùy thích nghe nhạc TCS, nhưng Thùy không thích ông này, nói cho cùng thì Thùy hơi lạ, Thùy thích đọc thơ Nguyên Sa, Nguyễn Bính…Nhưng Thùy không muốn tìm hiểu họ là ai. Ngoài bản Quốc Ca, Thùy không thuộc một bản nhạc nào, nhưng Thùy cũng rất yêu nhạc…Có lắm lúc Thùy nghĩ, mỗi bài thơ, một bản nhạc chỉ có một vài câu hay cũng đủ làm cho bản nhạc hay bài thơ ấy nổi tiếng rồi, thế thì cần gì phải nhớ hết? Ví dụ có bản nhạc ( quên là của ai ) có câu Thùy rất thích : Đời một người con gái…đến khi lấy chồng chỉ còn mối tình mang theo” chẳng hạn…

    Thùy ra nước ngoài sớm, nhưng lại định cư ở một nơi ” khỉ ho cò gáy ” của xứ Canada, mười năm đầu, Thùy không đọc được một chữ VN 🙁 .Sau đó bỡi vì công việc, Thùy phải lăn lộn khắp xứ Canada và Mỹ. Thùy dọn về Vancouver cở chừng ba năm nay thôi , trước đó Thùy làm việc ở Toronto cở chừng năm năm mấy…

    Có lẽ lăn lộn với công việc, không có dịp đọc sách báo VN nên viết sai nhiều chỗ, mà cũng có lẽ Thùy bất cần chăng? Anyway! các anh chị cứ chỉ, Thùy sẽ học từ từ.

    Nhân tiện, Thùy xin nói thêm với anh KXH một chút về chử ” Slang “. Thùy không so sánh I,YOU và QUA trong bài trước đâu nhé. Ý của Thùy là hai từ I và YOU thì có tính đại chúng, ai cũng biết, ai cũng dùng giống nhau, cái đó Thùy gọi là standard những cái gì không có tính đại chúng thì gọi là non standard, từ non standard đến slang thì rất gần guỉ, nhất là trong ngôn ngữ. Ý Thùy dùng là như vậy, có thể Thùy sai, nhưng Thùy dùng quen như thế.

    Thùy kể cho anh KXH nghe một chuyện vui. Hồi đó Thùy làm chung với bạn về những hệ thống lớn của IBM, những hệ thống này rất standardm, có nghĩa là những bộ phận của máy này thay qua đổi về rất dễ dải và luôn luôn work. Khi PC bắt đầu thịnh hành, bọn Thùy gọi chúng là slang, dĩ nhiên không ai hiểu bọn Thùy nói gì , nhưng theo bọn Thùy thì PC nói chung là non standard…có lẽ thói quen của Thùy bắt nguồn từ đó.

    Thùy xin gởi anh một bài thơ Thùy đã đọc được, bài thơ nói lên một chút tâm tình của một NVHN…

    UỐNG NỔI CÔ ĐƠN

    Bạn uống cùng ta để quên niềm tủi nhục,
    Làm kiếp lưu đày, nợ áo , nợ cơm!
    Giây phút lìa đời còn nợ mảnh đất chôn,
    Dẫu xác thân nầy cũng về trong lòng đất!
    Rượu đã mềm môi bạn chưa vơi niềm uất ức?
    (…)
    Làm kiếp lưu đày, nhưng ta vẫn là ta
    Da vàng , máu đỏ, tên là Việt Nam!
    Nguyễn Trải nào, không nhớ Ải Nam Quan?
    (…)
    Biển mặn Nha Trang, thông reo Đà Lạt…
    Một giải đất lành ôm gối mộng Trường Sơn…
    Bạn bỏ ta đi nhưng mắt vẫn nổ căm hờn,
    Để bạn yên bình, ta xin một lần vuốt mặt.
    Bạn bỏ ta đi, ta hao mòn tuổi hạc…
    Ngồi uống một mình… Ta uống nỗi cô đơn

    Thân ái mến chào anh.

    Nguyên Thùy

  7. Biển mặn Nha Trang…ơi!
    Đêm nằm nghĩ lại mà thương
    Anh chàng họ Khổng nhiễu nhương Nguyên Thùy
    Người ta con gái nhu mì
    Có gì trao đổi, chớ chi nặng lời
    Người ta tâm sự bời bời
    Sao anh không nói một lời cám ơn?
    (Anh ơi, phụ nữ hay hờn…)

  8. tản mạn tiếng việt
    Trong thời kỳ còn chiến tranh, tiếng Việt hai miền Nam Bắc có khác nhau: tranh đấu – đấu tranh, vinh quang – quang vinh, khỏang cách – cự ly, sức mạnh – cường độ…Miền Nam thường bị chê trách là ảnh hưởng ngọai lai, vì thế một số từ đã được miền Bắc việt hóa:
    – Về quân sự: phi công –giặc lái, nữ quân nhân- bộ đội gái, phi cơ trực thăng – máy bay lên thẳng, bộ binh – lính bộ, hải quân – lính thủy, thủy quân lục chiến – lính thủy đánh bộ, hàng không mẫu hạm – tàu sân bay vv…
    – Về hành chánh: bệnh viện – nhà thương, nhà bảo sanh – xưởng đẻ, trường quốc gia hành chánh = trường hành chánh quốc gia…
    – Các lãnh vực khác: Ra xem vườn rau= tham quan vườn rau…
    Gió thổi thêm vào miền Bắc = Gió bổ sung vào miền Bắc nước ta
    -Từ dùng giống nhau: Phái đòan văn nghệ tham quan hải ngọai = Phái đòan văn nghệ tham quan nước ngòai.
    Ngày nay một nước Việt nam thống nhất, những từ thông dụng đã được tái lập: phi công, nữ bộ đội, hải lục không quân, hàng không việt nam, bệnh viện vv…Thêm vào những từ triết học như: lao động, phấn đấu, lập trường, cải tạo, vi mô, vĩ mô …đã trở thành quen thuộc trong ngôn ngữ hàng ngày.
    Với sự biến thiên của một sinh ngữ, tiếng Việt ngày nay của 80 triệu dân trong nước và 3 triệu người ở hải ngọai: to lớn, vĩ đại= hòanh tráng, vui vẻ= phấn khởi, hồ hởi, dụng cụ đạo diễn= đạo cụ, tiến sĩ đệ tam cấp= phó tiến sĩ, cục phó= phó cục trưởng, tòa bạch ốc=tòa nhà trắng, ngũ giác đài= lầu năm góc…
    Về sách báo: hải ngọai đọc, viết nguyên ngữ Washington, Eisenhower; trong nước phiên âm Oa-shing-tơn, Ai-xăng-hao. Để dễ học tập, nghiên cứu cần kèm trong ngoặc chữ gốc như: Bờ-ra-dziu (Brazil), Ác-hen-ti-na (Argentina), Các Mác (Karl Marx), Ăng Ghen (Engels) vv…
    Người Việt nam trước đây đã có chữ Nôm (Nam đọc trại) viết theo lối người Hán tồn tại song song với Hán tự suốt nhiều thế kỷ:
    Trời Đất = Thiên Địa [Trời = (天thiên) + (上thượng), Đất = (土thổ) + (怛đát)]
    Theo Về = Tòng Qui [Theo = (足túc) + (燒thiêu), Về = (衛vệ)]
    Thời Pháp thuộc, chúng ta lại được xử dụng chữ Quốc ngữ.
    Chữ “quốc ngữ” xây dựng trên căn bản vần La- tinh được bổ túc hai kiểu mẫu âm tiêu nhằm thích ứng với tính đa dạng của các âm tố nơi tiếng Việt, và để ghi chép rõ nét các âm. Chữ Quốc ngữ hình thành do các giáo sĩ Tây Phương, họ muốn La Tinh hóa các chữ Á Đông nhằm truyền giáo.
    Từ những chữ phiên âm tiếng Việt: Anam: An Nam, Quignin: Qui Nhơn, Nuoecman: Nước mặn, Omgne: Ông nghè, Onsaij di lay: Ông Sãi đi lại, Tuijciam,biet: Tui chẳng biết…
    Qua giai đọan cấu tạo câu: lằng bôũ bàu: làng Bông Bầu, làng Kẻ tranh xuyên: Làng Kẻ Tranh Xuyên, oũ bà phủ: ông bà phủ, oũ phô mả liêu: Ông Phò Mã Liêu…
    Với sự đóng góp của người Việt, tài liệu của 14 giáo dân Việt Nam ghi bằng chữ Quốc ngữ thảo luận ở Viện Thần Học, Áo Môn năm 1645: “” Nhin danh Cha uà con uà Su-phi-ri-to-sang-to í nài An-nam các bỏn đạo thì tin ràng ra ba danh ví bàng muốn í làm một thì phải nói nhin nhít danh cha etc…” (nhân danh Cha và con và Su-phi-ri-to Sang-to Spirito Santo ý nầy An nam các bổn đạo thì tin rằng ra ba danh. Ví rằng muốn ý làm mộy thì phải nói: nhân danh Cha vân vân.).
    Tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ, cho đến khi quyển Tự Điển: “Dictionarium Annamaticum Lusitinum et Latinum” của Alexandre de Rhodes được in tại La Mã năm 1651, thì chữ Quốc ngữ đã bước sang giai đoạn mới hòan thiện. Thành ngữ “quốc ngữ” theo nguyên tự Hán-Việt là “tiếng nói của người Việt”.
    Tiếng Việt được xử dụng ngày nay nó trải qua lịch sử trên 300 năm. Trải qua tiến trình ngôn ngữ của một dân tộc, sự du nhập là cần thiết, nhưng thời gian sẽ là cái mốc cho sự chọn lựa và đào thải, chắt lọc những tinh hoa làm cho tiếng Việt ngày càng trong sáng trước khi chúng ta có được một Hàn Lâm viện để làm chuẩn mực.

    • RE: tản mạn tiếng việt
      ” Thời Pháp thuộc, chúng ta lại được [i]xử dụng [/i]chữ Quốc ngữ.”
      ” Tiếng Việt được [i]xử dụng[/i] ngày nay nó trải qua lịch sử trên 300 năm.”
      [i]Xử dụng[/i] hay [i]sử dụng [/i]? Cái nào đúng? Mong quí quynh giải đáp dùm ( nhân tiện, [i]dùm[/i] hay [i]giùm [/i]? )
      Cám ơn.

      • RE: RE: tản mạn tiếng việt
        Như vóc dáng một con người, chữ Quốc Ngữ dần dà biến đổi và phát triển mới có được diện mạo như ngày hôm nay.
        Giai đoạn đầu, có công đóng góp rất lớn của báo chí (như tờ báo chữ Quốc Ngữ đầu tiên: [i]Gia Định Báo[/i]-1865…) và các tác phẩm văn học Việt Nam (như nhóm [i]Tự Lực Văn Đoàn[/i]…).

        Thoạt đầu cách viết là [i]quy ước[/i], sau dẫn tới [i]quy định[/i] để hình thành nên các bộ từ điển chính tả (quy định cách viết đúng). Các quy định chính tả có hợp lý, tiện dụng hay không là chuyện khác. Nhưng đã là quy định chung thì cứ như vậy mà theo cho tiện (tất nhiên mọi thứ không phải là bất biến)

        Dưới đây có hai bộ từ điển tiếng Việt uy tín có thể làm [i]trọng tài chính tả[/i] là: [b]Tự-điển Việt-Nam[/b] của Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ (Khai Trí, Sài Gòn-1970) và [b]Từ điển Tiếng Việt [/b]của Ủy ban KHXH.VN-Viện Ngôn Ngữ học, Hoàng Phê chủ biên (Hà Nội-1988).

        Cả hai từ điển này đều ghi: [b]sử dụng[/b] và [b]giùm[/b] chứ không là [i]xử dụng[/i] và [i]dùm[/i].
        (Trong hai bộ từ điển này cũng không thấy có mục từ [i]dùm[/i] !)

        Vậy kính bẩm báo để quý huynh được rõ ! 🙂
        KXH

  9. RE: Tản mạn về Tiếng Việt
    Theo từ điển Tiếng Việt: không có từ “xử dụng” và “dùm”. Viết đúng theo chuẩn (tự điển) là “sử dụng” và “giùm”, và còn nhiều từ khác nữa. vd, sạc pin hay xạc pin ? Theo tôi nguồn gốc từ tiếng nước ngoài “charge” vì âm “ch” là âm gió mạnh nên viết là “sạc” thì gần tiếng gốc hơn và tự điển VN cũng sử dụng từ này.

  10. tản mạn tiếng việt
    Thưa quý bạn
    Thật ra theo luật chính tả trong tiếng Việt dầu chưa có Hàn Lâm Viện, nhưng chúng ta không phải muốn viết gì thì viết. Những qui định trong sách giáo khoa và những từ tra cứu, sử dụng trong các bộ tư điển phải có để làm chuẩn, thêm vào là thói quen của từng miền qua tiếng nói đại chúng. Cách phát âm của miền Bắc tương đối khá chính xác nhưng không phân biệt được như người Trung: ăn cơm chưa trưa (ăn sớm trước 12 giờ) và ăn cơm trưa chưa?. Tất cả người Bắc đều phát âm hai câu trên: ăn cơm chưa chưa !!!
    Hai từ xử dụng và sử dụng từ nào đúng hơn?
    Theo tự điển của Thiền Chửu, sử dụng 使用: sử : sai khiến, dụng : dùng (dùng) – còn xử dụng: xử 處 (ứng xử, xét xử, phân biệt) đi với dụng nó không phù hợp với ý ta muốn dùng trong câu. Trong các tự điển Hán Việt không có từ xử dụng để tra cứu mà chỉ có thói quen giao tiếp hàng ngày. Vậy sử dụng là chính xác hơn.
    Còn hai chữ dùm hay giùm cũng vậy, tôi nghĩ giùm phổ biến hơn. “Việt Nam tân tự điển” của Thanh Nghị thì không có chữ “dùm” mà chỉ có chữ “giùm” – giùm: giúp, dựng tạm, như làm giùm, xách giùm.
    Trên gò giùm một lầu thơ, Lau già chắn vách trúc thưa lát rèm (Bích câu kỳ ngộ).
    ” Thời Pháp thuộc, chúng ta bắt đầu dùng chữ Quốc ngữ.”
    ” Tiếng Việt ngày nay có lịch sử trải qua trên 300 năm.”

        • RE: RE: RE: tản mạn tiếng việt
          Không thấy có quy định cách đọc tiếng Việt cho người Việt, nên bạn cứ đọc [i]dùm, giùm[/i] như thuở nào thuở nao.
          Thường thì [i]dùm[/i] đọc như người Hà Nội; [i]giùm[/i] đọc như dân Cường Để Quy Nhơn vậy 😆

        • RE: RE: RE: tản mạn tiếng việt
          Hai chữ này đồng âm như “giám” và “dám”, Tỉnh Bắc Kạn hay Bắc Cạn. Trong tiếng Anh cũng có một số từ tuy viết khác nhưng đọc giống nhau như trong tiếng Việt vậy thôi vd như:
          buy – bye /bai/
          be- bee /bi:/
          bean – been /bi:n/
          ceiling – sealing /si:liɳ/
          check- cheque /tʃek/
          die – dye /dai/
          hay know và no, knight và night v.v..và v.v..

  11. Thú vị tiếng Việt,
    Những nhóm từ sau đây có điểm chung về âm, bạn thấy chúng điểm chung về nghĩa chứ?
    A: chông, chống, chổng, chồng
    B: choi, chói, chỏi, chòi, chọi
    C: vu vơ, vớ vẩn, viễn vông, vung vít, vẽ vời

    • RE: Thú vị tiếng Việt,
      mấy chữ trong danh sách phần lớn không chữ nào nghĩa giống chữ nào, bạn Antoinette nên đăng ký đi học thêm tiếng Việt!

BÌNH LUẬN

Vui lòng viết bình luận của bạn
Vui lòng điền tên của bạn ở đây

Bài Cùng Tác Giả