Trong thời Việt Nam Cộng Hòa có hai nơi đào tạo ngành Nữ Hộ Sinh Quốc Gia, một ở Thủ đô Sài Gòn và một ở Kinh thành Huế.
Trường Nữ Hộ Sinh Quốc Gia Sài Gòn, thành lập năm 1947, là một dãy nhà dài, đúc bê tông, lầu ba tầng. Tầng 2 và 3 dùng làm nội trú cho sinh viên, mỗi tầng chia làm hai dãy, mỗi dãy có 1 phòng ngủ tập thể rộng, phòng tắm và phòng vệ sinh. Tầng trệt dùng làm văn phòng, phòng điều hành, phòng khách và cầu thang, phòng ăn và nhà bếp. Trường sở tuy nằm trong khuôn viên Bệnh Viện Từ Dũ số 284 đường Cống Quỳnh, nhưng biệt lập, có cổng ngõ và lối đi riêng thông ra đường Hồng Thập Tự.

Trường Nữ Hộ Sinh Quốc Gia Huế ở số 1 đường Trưng Trắc, thành lập năm 1957, gần Bệnh viện Trung Ương Huế. Cơ sở gồm khu nội trú lầu 2 tầng, khu giảng đường là căn nhà trệt rộng, khu ăn uống, và có một nhà tiếp khách riêng biệt.
Hằng năm, hai trường thu nhận 90 sinh viên (60 cho Sài Gòn và 30 cho Huế) trong lúc thí sinh cả vài ngàn, nên phải qua một kỳ thi tuyển. Khóa trình ba năm, có cấp học bổng và quy chế nội trú. Ra trường, phục vụ ít nhất là 10 năm, nếu nghỉ việc trước thời hạn, phải bồi hoàn tiền ăn học.

Lúc nào trường cũng có ba khóa sinh viên cùng có mặt: năm thứ ba sắp ra trường, năm thứ hai đang giữa học trình và năm thứ nhất mới nhập môn. Chính vì gần gũi nhau trong học tập và sinh hoạt, nên họ rất quen thân trong thời gian dài. Rồi khi ra trường, phân phối về các tỉnh, mỗi người một nơi, ít có dịp gặp nhau.

Biến cố 30 tháng 4 năm 1975, hơn một triệu người bỏ nước ra đi, gia đình NHSQG phần lớn đã đến được bến bờ tự do. Tha hương ngộ cố tri, họ tìm liên lạc nhau. Lần hồi đã có những buổi họp mặt cấp vùng tại Houston, Nam Cali…những bản tin hay đặc san cũng bắt đầu góp mặt trong nền Văn Học Việt Nam Hải Ngoại.
Rồi nhiều đề nghị, cần có một Đại Hội Nữ Hộ Sinh Quốc Gia Việt Nam Hải Ngoại tại New York, để tất cả cựu đồng nghiệp ở rải rác các nước trên thế giới có dịp gặp nhau. Và thể theo yêu cầu của nhiều người, chị Đỗ Minh Tham, NHSQG khóa 7 ở Huế, nguyên Nữ Hộ Sinh Trưởng tỉnh Khánh Hòa kiêm Trưởng Phòng Hộ Sinh Bệnh Viện Toàn Khoa Nha Trang, đứng ra đảm nhận việc tổ chức và điều hành Đại hội có kết hợp với du lịch, từ ngày 31 tháng 8 đến 10 tháng 9 năm 2006, để kéo dài cuộc hàn huyên, thầy xưa bạn cũ được dịp gặp gỡ trò chuyện vui sống bên nhau trong mười ngày, lịch trình thực hiện như sau:
1/ Các nơi về họp mặt:
Trong hai ngày 31 tháng 8 và 1 tháng 9 năm 2006, các phái đoàn cựu NHSQG Việt Nam trên toàn thế giới về tại khách sạn Carter ở 250 West 43rd Street, New York, NY 10036. Ngày đầu đã có 100 người đến, chiều hôm ấy Ban tổ chức đưa đi ăn cơm gà Mã Lai. Ngày hôm sau, khảng 100 người nữa đến tiếp. Chúng tôi, phái đoàn ở San Jose, có 5 cựu NHSQG và 4 thân nhân, khởi hành ngày 1- 9 và về ngày 9- 9- 2006.
Nhờ tài ngoại giao khéo léo của chị Minh Tham, Trưởng Ban tổ chức; chủ nhân khách sạn là ông bà Trần Đình Trường đã sẵn sàng cung cấp phòng ở miễn phí suốt thời gian Đại Hội và du lịch cho tất cả cựu NHSQG cùng gia đình từ xa về tham dự. Mỗi cựu NHSQG lãnh một phòng nếu có thân nhân đi theo.
Khách sạn Carter có 700 phòng, nằm trong khu vực đặc biệt, gọi là Times Square, nơi đây được chọn làm lễ đón giao thừa hằng năm và cũng là khu ăn chơi của thành phố New York. Đường 42 West side có nhiều mục hấp dẫn cho khách du lịch, đèn điện rực rỡ, người qua kẻ lại tấp nập suốt đêm không ngủ.

2/ Thăm Trụ sở Liên Hiệp Quốc:
Sáng thứ bảy ngày 2- 9- 2006, phái đoàn cựu NHSQG Việt Nam và thân nhân từ khách sạn Carter đi bộ đến United Nation (trụ sở Liên Hiệp Quốc) nằm trên bờ sông Hudson, từ đường 43 qua 42 và theo đường này đi về hướng Đông. Trên đường, qua ga xe lửa lớn thứ 2 của New York City, gặp khách sạn Hyatt toàn bằng kính, thấy hãng Pfizer là viện bào chế nổi tiếng với nhiều loại thuốc, trong đó có Viagra.

Trụ sở Liên Hiệp Quốc là tòa nhà có nhiều tầng, hình hộp, vươn cao lên nền trời, tọa lạc trong khuôn viên rộng rải, trải dài và thẳng góc ở cuối đường 42- 43- 44. Khách du lịch muốn vào thăm phải mua vé, qua trạm kiểm soát có máy dò tìm vũ khí và chất nổ. Khách viếng, ghép thành từng toán 20 người, được phát huy hiệu gắn lên ngực để tránh sự trà trộn, và giao cho một hướng dẫn viên phụ trách đem đi xem tất cả những phòng họp của Hội Đồng, xem những triển lãm, trưng bày trong tòa nhà này. Đi giáp một vòng, toán chúng tôi nộp lại tấm huy hiệu cho người hướng dẫn, vào nhà hàng ở tầng hầm (basement) ăn trưa, rồi ra về.



3/ Đêm Đại Hội:
Năm giờ chiều cùng ngày, 4 xe bus đến khách sạn Carter đón chúng tôi đến địa điểm Đại hội, tổ chức tại nhà hàng Chinatown Sunrise số 27 Division Street, New York, NY 10002. Những nét chính trong buổi lễ gồm có:
a/ Phần điều hành Đại hội:
Điều khiển chương trình do hai MC: Nhạc sĩ kiêm nhà báo Phan Đình Minh đến từ Dallas (Texas) và cô Mai Linh, Hoa Hậu Á Châu Quốc tế 1992, đến từ Massachusetts. Sau thủ tục nghi lễ khai mạc, cựu NHSQG Đỗ Minh Tham, Trưởng Ban Tổ Chức, đọc diễn văn (trích đoạn kết):
“…Thưa quý vị,
Trường NHSQG Việt Nam là nơi đã rèn luyện những bàn tay nhân ái:
Có những bàn tay rất nhẹ nhàng
Bàn tay không vướng chút kiêu sang
Cũng không tô chuốt màu hồng hạnh
Mà vẫn hồng tươi vẫn dịu dàng.
Những bàn tay nhân ái và dịu dàng đó đã đón rước rất nhiều các hài nhi trong tiếng khóc chào đời. Do đó, mục đích của tôi hôm nay là để cho các chị em NHSQG Việt Nam được gặp lại nhau sau 31 năm xa cách Quê hương; có dịp được biết đến thành phố New York, một thành phố rất sôi động và nổi tiếng về mọi phương diện…”

b/ Phần giới thiệu quan khách, có nhiều vị ở phương xa về tham dự như:
– Đến từ Paris có ÔBà Thạc sĩ Bác sĩ Vũ Thiện Phương, nguyên GS trường Đại Học Y Khoa Sài Gòn và trường NHSQG Sài Gòn.
– Đến từ Toronto Canada có BS Lê Bá Vận, cựu GS trường NHSQG Huế; BS Bùi Xuân Nhiếp và BS Đặng Minh Châu nguyên phục vụ tại Bệnh viện Từ Dũ Sài Gòn.
– Đến từ Montréal Canada có Bà Trần Thị Phòng, người đầu tiên thành lập chương trình Bảo Trợ Mẫu Nhi của VNCH tại Sài Gòn.
– Đến từ tiểu bang New Hampshire (NH) có ÔBà Vũ Đình Giang.
– Đến từ Boston tiểu bang Massachusetts (MA) có ÔBà GS Hoa Diên Faller.
– Đến từ Philadelphia tiểu bang Pennsylvania (PA) có Ô Lê Toàn, Chủ nhiệm tờ báo Asia New; Ô Nguyễn Tạ Quang, Chủ tịch Hội Hải Quân Hàng Hải miền Đông Bắc Hoa Kỳ; Ô Đào Trịnh Bính, cựu Giám đốc hãng sửa SMA ở Việt Nam; ÔBà Kỹ sư Công chánh Trần Mộng Lương.
– Đến từ tiểu bang Virginia (VA) ông bà cựu Đại tá Lê Khánh, bà Bùi Quang Huệ cựu Chủ sự Phòng Bảo Trợ Mẫu Nhi VNCH.
– Đến từ Houston tiểu bang Texas (TX) có ÔBà Bác sĩ Lê Huy Ninh.
– Đến từ Austin TX có ÔBà TS Nguyễn Thanh Toàn.
– Đến từ Seatlle tiểu bang Washington (WA) có ÔBà BS Harry Lo.
– Đến từ San Francisco tiểu bang California (CA) có ÔBà BS Phạm Đỗ Tường.
– Đến từ Orange CA có Bà Trần Thị Thanh Liêu, cựu Giám học trường NHSQG Huế.
– Đến từ Santa Ana CA có cựu Trung tá Không Quân Tôn Thất Lăng và ÔBà GS Lê Trọng Ngưng (thầy cũ của chị Minh Tham ở trường Võ Tánh Nha Trang).
Quan khách ở New York (NY) có Ô Nguyễn Văn Tánh, Cố vấn Cộng Đồng Việt Nam tại New York; Ô Lê văn Đáp, Chủ tịch Hội Huế ở NY; ÔBà Nhạc sĩ Phạm Hồng Điền, Biên tập viên Nguyệt san Đẹp ở NY; ÔBà Hoàng Lan, Cố vấn Hội Phụ Nữ Miền Đông Bắc Hoa Kỳ; Bà Naney; ÔBà Nguyễn Ngọc Đạt; BS Nguyễn Ngọc Huy; ÔBà Vũ Tứ; và nhiều thân hữu khác…
c/ Phần giới thiệu các phái đoàn cựu NHSQG cả hai trường Sài Gòn và Huế về tham dự:
– Ngoài Hoa Kỳ, đến từ Châu Âu ở các nước Pháp, Ý, Hòa Lan; đến từ Canada ở Montréal, Toronto, Ottawa và Vancouver.
Trong Hoa Kỳ, đến từ Washington DC và các tiểu bang Miền Đông Bắc như: Indiana (IN), Maryland (MD), Virginia (VA), Connecticut (CT); đến từ các tiểu bang Miền Nam và Đông Nam Hoa Kỳ: Florida (FL), Louisana (LA) và Texas (TX) ở các thành phố Dallas, Austin, Houston; đến từ các tiểu bang Miền Tây Hoa Kỳ như: Washington (WA) ở thành phố Seattle, Oregon (OR), Bắc California (CA) ở các thành phố Sacramento, San Francisco, San Jose, và Nam California ở các thành phố San Diego, Westminster, Garden Grove, Santa Ana, San Gabriel, Los Angeles…; cuối cùng là phái đoàn đến từ các tiểu bang Miền Bắc Hoa Kỳ như: Montana (MT) và Michigan (MI).

d/ Phần phát biểu và đáp từ của BS Vũ Thiện Phương; tiếp đến Bà Trần Thị Thanh Liêu đọc bức thư của BS Nguyễn Văn Vĩnh, cựu Giám Đốc trường NHSQG Huế; Bà Ngô Thái Thuộc đến từ Paris tặng cái chuông biểu hiệu cho sự quy tụ từ các nơi về New York tham dự Đại hội; tiếp nữa có các vị Bà Trần Thị Phòng, Bà Bùi Quang Huệ, Bà Kim Loan lần lượt phát biểu.
e/ Phần văn nghệ và dạ vũ do ban nhạc One Man Band ở New York đảm trách với sự tham gia của hai MC và các ca sĩ địa phương giúp vui. Ngoài ra, còn có các nghệ sĩ phương xa như: Huỳnh Nuôi và Nhật Tân đến từ New Jersey, Kiều Nga đến từ Virginia, Thái Hòa đến từ Washington DC, Phương Hồng Loan (ái nữ của nhạc sĩ Văn Phụng) đến từ Ottawa (Canada), Trịnh Viết Thái và Dương Thái Lai đến từ Florida, và nhiều cựu NHSQG sở trường về văn nghệ.
Dạ hội khai mạc lúc 7 giờ 30, có hơn 250 người tham dự (gồm quan khách, thân hữu và gia đình NHSQG), với 25 bàn tiệc, đến 12 giờ khuya mới mãn, và 4 xe bus chờ sẵn chở người về khách sạn.
04/ Viếng di tich lịch sử:
Chủ nhật ngày 3- 9- 2006 là một ngày du lịch đầy thú vị, dành hết thì giờ viếng cảnh ba nơi mang ý nghĩa lịch sử.
Tám giờ sáng, 4 xe bus đến khách sạn Carter chở chúng tôi đến Battery Park để mua vé đi ra Liberty Island xem tượng Nữ Thần Tự Do, Mỹ quen gọi Statue of Liberty, nhưng tên chính thức là Statute of Liberty Enlightening the World. Đảo Liberty rộng 12 mẫu, nằm trên sông Hudson và tượng Nữ Thần Tự Do là quà tặng của nhân dân Pháp cho nước Mỹ, khánh thành ngày 28- 10- 1886.

Đến xế, chúng tôi rời đảo có Tượng Nữ Thần, dùng tàu Circle Line đến Ellis Island cũng ở trên sông Hudson. Nơi đây, trước kia tất cả những di dân khi vào định cư đất Mỹ, đều phải vào đảo này để làm thủ tục nhập cư. Tại nhà trưng bày, còn lưu giữ những vật dụng, những chiếc rương và giỏ xách của người di cư từ bao đời xa xưa.

Rời đảo Ellis, trở lại Battery Park, chúng tôi vội lên 4 chiếc xe bus chờ sẵn để kịp thì giờ viếng Ground Zero, tòa nhà Tháp Đôi bị phá hủy trong vụ khủng bố 9/11 năm 2001. Trung Tâm Mậu Dịch Thế Giới (Word Trade Center) là hai tòa cao ốc 417 mét và 415 mét, mỗi nhà có 110 tầng, khánh thành năm 1972, trị giá 1 tỷ Mỹ kim, cao vút trên nền trời New York, một thời phồn thịnh nhất thế giới; phút chốc đã thành bình địa! Đứng trước cảnh tàn phá, nhìn hàng chữ “Here Remembering 9/11” mọi người bùi ngùi xúc động nghĩ đến 2996 người đã chết và mất tích trong bốn vụ thảm sát này.
Trời đã về chiều nhưng chưa tắt nắng, chúng tôi đi bộ về hướng phố Tàu, dùng cơm chiều, đáp tàu điện ngầm đến đường 42, rồi lững thững về lại khách sạn mà lòng còn vương vấn.

5/ Du lịch trên sông:
Sáng thứ hai ngày 4- 9- 2006 chúng tôi đi bộ dọc theo đường 43 về phía tây, ngược chiều với hướng đến trụ sở Liên Hiệp Quốc, để đến bến cảng.

Rồi đáp tàu Circle Line du hành trên sông Hudson trong ba tiếng đồng hồ, xem những tòa nhà chọc trời ở hai bên bờ và xem thắng cảnh đảo Manhattan (Mã Nhật Tân). Những công trình kiến trúc nguy nga tráng lệ, vươn mình trong nắng đầu thu, kết hợp cảnh sắc thiên nhiên lồng lộng trời cao, dải mây điểm nhạt, hàng cây soi bóng, sóng nước dặt dìu, tạo nên bức tranh hài hòa kỳ diệu, thu hút lòng người ngoạn cảnh.

Tâm hồn còn mãi say sưa với cảnh đất trời Mã Nhật Tân thì đã đến giờ đi Broadway show, xem vở kịch Mamma Mia tại nhà hát nằm trên góc đường Broadway và 50th, mà chị Minh Tham đã đặt mua vé trước.

6/ Một ngày dạo phố New York:
Thứ ba ngày 5- 9- 2006 là ngày cuối cùng còn đông đủ chị em cựu NHSQG, theo lịch trình chúng tôi dạo phố Tàu New York. Lúc 9 giờ sáng, đoàn người rời khách sạn. Việc di chuyển bằng xe điện ngầm cho một tập thể 200 người là điều khó khăn. Chị Minh Tham phải bỏ ra 4 ngày để mua vé (Metro card) trước. Việc cà thẻ để qua cổng vào ga đồng loạt, nhiều người còn lúng túng, Ban Tổ chức phải đứng ra làm giúp, mới có thể toàn bộ kịp giờ lên xe số 2 đi đến khu South Street See Port.

Nơi đây có bến tàu thủy chở khách sang State Island, có nhà hàng Ý rất lớn và nhiều quán ăn để khách dùng bữa trong trong ngày du lịch; còn có chợ bán đủ mặt hàng, như chợ Việt Nam, tìm mua bất cứ thứ gì cũng có.

Rời bến tàu, chúng tôi viếng thăm đường Fifth Avenue và đến building Rockefeller Center sang trọng, nổi tiếng bởi những tòa nhà đồ sộ cao vút trời xanh, có tượng người to lớn mạ vàng, đặt trong công viên. Vườn này là nơi giải trí cho công chúng, mùa hè dựng quán giải khát, mùa đông làm sân trượt tuyết.

7/ Đêm văn nghệ cây nhà lá vườn:
Qua bốn ngày chung vui, một số chị em cựu NHSQG vì công việc sở làm không thể dự cuộc du lịch Canada và Washington được. Đêm nay (5- 9- 2006), có buổi văn nghệ họp mặt ở tiền sảnh (lobby) khách sạn, nói lên lời từ giã và lòng tri ân ông bà chủ khách sạn. Tuy rằng có tính cách vui chơi nội bộ, nhưng cũng có mặt các quan khách thân tình như: ông bà Trần Đình Trường, chủ nhân khách sạn Carter; ông Nguyễn văn Tánh, cố vấn Cộng Đồng Việt Nam ở New York; bà Hoàng Lan, cố vấn hội Phụ Nữ miền Đông Bắc Hoa Kỳ; ông Phạm Hồng Điền, cựu Trung tá trường Võ Bị Đà Lạt, đàn giúp vui; nghệ sĩ Phương Hồng Loan (ái nữ của nhạc sĩ Văn Phụng) trình diễn hài kịch độc đáo, và nhiều nghệ sĩ cây nhà lá vườn lần lượt lên giúp vui.

8/ Hành trình du lịch đường dài:
Sáng ngày ngày 6- 9- 2006 tất cả cựu NHSQG từ xa đến dự Đại Hội đều có mặt tại tiền sảnh của khách sạn, một số chia tay bạn bè đón xe taxi lên phi trường trở về nhà, số còn lại tham gia du lịch đường xa, chia làm hai hướng: một lên mạn Bắc, một xuôi về Nam.
Du lịch Niagara Fall và Canada, thời gian 3 ngày 2 đêm, có 100 người tham gia, lên hai xe bus của hãng du lịch LL Tours, chờ sẵn trước khách sạn. Một xe do Nhạc sĩ Phan Đình Minh phụ trách, ông Jack (người Mỹ gốc Hoa) làm hướng dẫn viên và ông Peter tài xế; xe kia do cô Minh Tham điều hành, có ông Benjamin (người Tàu) hướng dẫn và ông Louise tài xế.
Du lịch Washington, thời gian 2 ngày 1 đêm, chỉ có 20 người tham gia, không đủ cho một chuyến xe, nên phải đến địa điểm 89 Bowery Street ở khu phố Tàu để nhập chung với đoàn du lịch khác cũng do hãng LL Tours chuyên chở.
Trên đường lên hướng Bắc, xe dừng lại ở Corning Glass Center Museum, vào thăm tòa nhà trưng bày những vật dụng cổ làm bằng sành sứ và thủy tinh. Được xem tận mắt các lò than đá đun nóng chảy thủy tinh và những công nhân biểu diễn cách làm chai lọ qua các khâu thủ công ngày xưa.
Xe đến khách sạn Ramada lúc xẩm tối, chúng tôi lên phòng cất hành lý, rồi đi bộ ra bờ sông xem Niagara Fall, một kỳ quan của thế giới.
Thác Niagara nằm trên đường biên giới hai nước, Canada và Mỹ. Phần thác bên Mỹ thuộc thành phố Niagara, tiểu bang New York. Phần thác bên Canada thuộc thành phố Niagara, tỉnh bang Ontario. Thác Niagara thông giữa hồ Erie và hồ Ontario, mà hồ Erie cao hơn hồ Ontario đến 1 mét 2, nên nước không bao giờ ngừng chảy và dòng thác rất mạnh, tiếng động rền trời. Dân trong vùng, đời đời quen với tiếng động ấy, nhưng ngày 29- 3- 1848 đang đêm cả vùng Niagara bỗng im bặt, làm mọi người thức giấc. Thì ra có một tảng băng khổng lồ cản nước bít kín, làm thác ngưng hoạt động trong nhiều giờ.

Đứng trên phần đất Hoa Kỳ, xem cảnh Niagara Fall, tiếng gầm rú long trời lở đất của muôn vàn khối nước từ trên cao trút xuống trong ánh đèn màu quyện vào sương khói lung linh, hòa lẫn tiếng nổ bập bùng của những chùm pháo bông thi nhau lóe sáng trên nền trời đen nghịt, tạo cho cảnh thác về đêm càng thêm hãi hùng, chen lẫn cái hùng vĩ và huyền ảo.
9/ Vào thăm đất Canada:
Sáng sớm ngày 7- 9- 2006, xe chờ sẵn chở đoàn du lịch vượt biên giới sang Canada để quan sát chính diện thác Niagara. Trước hết, mua vé thưởng thức màn Skylon Tower, có thang máy đưa lên tháp cao hình nấm. Nơi đây, thấy toàn diện cảnh thác, là một bức tường nước thẳng đứng màu trắng, dựng cao hoành tráng, trải dài nối kín hai bờ xa tắp. Khói nước xóa mờ chân thác, là là trải rộng mặt sông, làm tăng thêm nét hùng vĩ lạ thường.

Kế đến, chúng tôi tham dự chuyến Maid of The Mist, đi tàu dọc theo chân thác luồn qua khói sóng. Khách du lịch được phát áo tơi nylon màu xanh, phủ kín từ đầu đến chân. Thuyền có hai tầng, tầng dưới ít bị sóng nhồi và đỡ bị nước xối, tầng trên lãnh đủ sự gian khổ nhưng đầy thú vị. Thuyền từ từ tiến về chân thác, nước gầm thét càng lớn, sóng càng dữ, sàn tàu lắc lư càng mạnh, rồi màn bụi nước, rồi nước bắn tung tóe mỗi lúc một nhiều, như trận mưa rào khủng khiếp mờ mịt cả đất trời… Thuyền đỗ bến, mọi người lảo đảo lên bờ, lân lân vào hồn một cảm giác mạnh về cái thác nổi tiếng nhất trên địa cầu.

Với Niagara Fall, còn xem một pha nữa là Imax Movie, chiếu trên màn ảnh nổi về cảnh thác qua các mùa thời tiết và những cuộc mạo hiểm lịch sử của con người với thác này.
Chào tạm biệt Niagara Fall, xe chạy vòng lên hướng bắc chừng 1 giờ 30 phút thì đến thành phố Toronto. Ban Tổ chức đã đặt trước hai bữa tiệc trưa và tối, với nhiều món ăn ngon miệng, tại nhà hàng Forestview Chinese Restaureant ở địa chỉ số 466- 468, Dundas Street W, Toronto, Ontario. Suốt cả buổi chiều, chúng tôi dạo khu phố Tàu. Quán xá ở đây giống như Chợ Lớn của Việt Nam, hai bên đường nào dãy hàng trái cây, nào dãy chuyên bán đủ loại hải sản sấy khô; những gian phố này bày bán lan ra vệ đường. Đặc biệt của Canada là có bán đủ các loại trái cây của miền nhiệt đới, không ướp lạnh, cuống lá còn tươi như mới vừa hái xuống, mùa nào quả nấy, nào sầu riêng, chôm chôm, măng cụt, nhãn lồng, mãn cầu ta, mãn cầu xiêm, vú sữa, hồng xiêm (sapotier), xoài tượng, mít, dừa, thanh long, chuối, mận, khế… và còn nhiều loại trái khác chưa thấy hết được.
Chiều hôm ấy, trong đoàn du lịch có 23 người tham gia tour CN Tower, được xe chở đến địa điểm, rồi thang máy đưa lên tháp cao để ngắm nhìn toàn cảnh thành phố Toronto.
Sau khi dùng cơm tối, xe chở đi về hướng phi cảng của thành phố (Toronto Airport), đến khách sạn Belaire Hotel ở địa chỉ 240 Belfield Road, Toronto, Ontario M9W 1H3, Canada. Mọi người vào phòng, ngủ sớm, ngày mai phải dậy lúc 4 giờ sáng để kịp đi thăm thắng cảnh cuối cùng trong chương trình du lịch, cách thành phố này 3 giờ rưỡi lái xe.
10/ Trên đường trở lại New York:
Sáng ngày 8- 9- 2006, chúng tôi rời khách sạn lúc trời vừa rựng sáng. Xe chạy về hướng Đông, men theo hồ Ontario để đến Rockport vào thăm Thousand Islands nằm trên sông St Lawrence; con sông dẫn nước từ hồ Ontario xuyên Montréal, qua Québec rồi đổ ra biển Đại Tây Dương.

Thousand Islands là một quần thể gồm hơn 1800 hòn đảo lớn nhỏ và chừng 3000 chỗ nông (shoals), trải dài 80 cây số (tức 50 dặm). Khu quần đảo này nằm về phía Đông hồ Ontario, ở phía Bắc tiểu bang New York (Hoa Kỳ), và phía Nam tỉnh bang Ontario (Canada).

Đi tàu Rockport Boat Line trong hai giờ, trên đoạn sông chia ranh giới hai nước, bên Bắc của Canada, bên Nam thuộc Mỹ. Mặt sông rộng, nước trong xanh, sóng gợn lăn tăn, đó đây nhô lên vô số đảo. Lớn nhất là đảo Volfe, thuộc tỉnh bang Ontario của Canada, rộng 124 km² (48 dặm vuông), có đảo lại quá bé chỉ bằng cái thúng. Phần lớn các đảo ở đây nhỏ gọn vừa đủ xinh xắn, đầy thơ mộng, tưởng chừng như những hòn non bộ trong bể cạn. Các nhà tỷ phú mua những đảo này, cất biệt thự sang trọng, xây lâu đài tráng lệ, đủ kiều dáng; hàng năm vào mùa hè, họ đem gia đình ra đây nghỉ mát.

Từ năm 1938, cầu Thousand Islands năm nhịp bắc qua đảo và sông, nối hai miền đất Ontario và New York đã tạo cho lượng du khách qua lại miền này trong mùa hè càng thêm tấp nập.

Trước khi qua biên giới, xe dừng lại Durty Free, mọi người vào mua vài món quà lưu niệm cho chuyến du lịch. Nơi đây, ngoài những mặt hàng đặc trưng cho Canada, còn bán đủ loại, từ áo quần, nữ trang, đồ gia dụng, bánh kẹo, máy móc,… giá lại rẻ và không thuế.
Rời Canada trở về Mỹ, qua trạm gác trình giấy hộ chiếu. Tất cả trái cây ở Canada và hột giống, phải vứt bỏ, tuyệt đối không được mang vào đất Mỹ.
Bảy giờ tối, xe về đến trung tâm thành phố New York, chỉ còn vài phút nữa là đến khách sạn Carter. Chúng tôi, cả hai xe, đồng ca bài chia tay trong bùi ngùi lưu luyến: Vui một đêm nay, rồi mai lên đường, Vui buồn ai hay, Sầu thương không lường, Mai về quê hương, Trăng ngà yêu thương. Lòng còn vấn vương, Lòng còn nhớ thương…
Mặc dù trải qua ba ngày du lịch đường dài mệt mỏi, nhưng một số người còn muốn níu kéo thời gian cuối cùng của cuộc họp mặt. Họ về phòng cất hành lý rồi lên xe bus của ông Jack, tham gia chuyến New York By Night. Phái đoàn có 50 người, anh Phan Đình Minh và chị Minh Tham hướng dẫn, thay nhau giới thiệu từng khu phố. Suốt hai tiếng rưỡi, xe chạy khắp các đường chính của New York, mọi người chiêm ngưỡng một lần nữa sự sống về đêm của một thành phố nổi tiếng trên đất Mỹ.

11/ Giã từ Đại hội:
Sáng sớm ngày 9- 9- 2006, chúng tôi trả chìa khóa phòng, chào tạm biệt bạn bè, thuê xe taxi lên phi trường cho kịp chuyến bay về San Jose.
Phần lớn chị em cựu NHSQG ra về trong hôm nay, chỉ còn 20 người ở lại đợi chuyến bay ngày mai. Riêng Minh Tham, trưởng ban tổ chức, phải ở lại khách sạn Carter với 2 người bạn từ Pháp sang dự Đại hội, còn lưu luyến New York đến ngày 24- 9- 2006 mới về.
Đã hơn hai tháng qua, dư âm ngày Đại Hội và chuyến du lịch còn vang vọng qua nhiều cuộc điện đàm, qua nhiều bức thư, qua nhiều bài thơ gửi đến Ban Tổ Chức khen tặng, cảm ơn. Chúng tôi xin trích đoạn bài thơ của chị Mạc Thanh Ngọc gửi từ Everett tiểu bang Washington:
Chào mừng Đại Hội Hộ Sinh,
Lần đầu toàn quốc ngành mình họp nhau.
Thời gian xa cách bấy lâu,
New York điểm hẹn nhiệm mầu nên thơ.
*
Hân hoan vui vẻ vô bờ,
Minh Tham ước nguyện giấc mơ đạt thành.
Hội ngộ phấn khởi điềm lành,
Hàn huyên tâm sự năm canh mơ màng…
Thời gian không dừng lại, sự tàn tạ tăng dần với tuổi tác tháng năm, nhưng hình ảnh Thầy Xưa Bạn Cũ trong DVD Mùa Đại Hội còn mãi, và những ngày họp mặt đã đi vào ký ức bằng những kỷ niệm thân thương của người cựu NHSQG Việt Nam ở Hải ngoại.
San Jose, Thanksgiving, 23-11- 2006
ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG
Trích Chương III, trong tập Mùa Hội Ngộ
Số lần đọc: 48
