Trang sinh hoạt của Cựu Giáo Sư và Học Sinh trường Trung Học Cường Đễ Qui Nhơn

Quách Tấn

Thi sĩ Tản Đà có lần nhìn lại đời cầm bút của mình, và viết: ‘Tôi từ khi theo nghề quốc văn kể có tới gần mười lăm năm, lên bỗng xuống trầm, vào trong ra đục, phong trần chẳng quản, phi nghị mặc ai, thực cũng mong tựa văn chương để có ít nhiều sự nghiệp. Mới đây, tôi ở Hà Nội vào Nam, thăm Thuận An, qua Đà Nẵng, trải Hoành Sơn, Hải Vân, một lần đường bộ, hai lần đường thủy, càng thấy giang sơn là to, càng mới biết văn chương là rất nhỏ mà bao nhiêu cái tư tưởng muốn lấy văn chương làm sự nghiệp, tự nhiên như bọt bể mây ngàn.‛ (1)  

Ngày xưa khi thi sĩ viết những lời tâm huyết ấy, tôi mới vừa biết đi trên hai chân chưa được bao lâu. Nằm khềnh ra không phải là đặc điểm của loài người, bò lê bò la bằng cả tứ chi cũng không phải đặc điểm của loài động vật người. Vậy ngày thi sĩ Tản Đà ngoái đầu nhìn lại sự nghiệp, tôi loạng choạng bắt đầu đời người.

Sau này, gần cuối đời ngẫu nhiên gặp câu văn của cụ, thoạt tiên tôi bất giác mỉm cười: ‘Mới từ Hà Nội vào Nam cụ đã ngộp!‛

Dần dà nghĩ lại thấy mình lố bịch quá thể. Cười đây hẳn là cười về chỗ Tản Đà tiên sinh đi chẳng bao nhiêu đã đâm hoảng vì cảnh rộng lớn chăng! Ý muốn cho rằng tung chạy khắp bốn phương trời, trải qua đủ năm châu bốn bể như lớp người đồng cảnh của mình hiện nay mới là … chì chăng? ” Thì ra bậc tiền bối chỉ đi chừng nghìn dặm trong nước đã học được bài học nhũn nhặn, đã nhận thức ra cái phận mỏng manh của cá nhân, cái tính cách phù phiếm của một ‚sự nghiệp‛. Trong khi ấy, mình lăng quăng đến xơ xác thân thể mà cơ hồ chưa học hỏi được gì, mà vẫn cứ nhâng nháo! Mà vẫn nhì nhằn ôm riết lấy quản bút chưa dài tới hai tấc tây, như thể không rời nổi… sự nghiệp!

Trời đất mênh mông đành không dạy được lời nào cho đám tục tử vô cảm xúc sao? Người thi sĩ đa tình đa cảm hồi đầu thế kỷ 20 lại rủi ro có hàng lũ hậu sinh ‘chì‛ đến thế sao?

Mùa xuân năm 1978, có lần cùng với họa sĩ Lâm Triết rủ nhau kéo lên Hồng Sam Quốc Gia Lâm Viên (Sequoia National Park) xem chơi cho biết. Xe leo núi ngoắt qua ngoắt lại mãi; vào khoảng mười giờ sáng chúng tôi dừng ở một trạm  nghỉ bên trên triền núi: một di tích lịch sử. Hồi xa xưa, đây là địa điểm sinh sống của một bộ lạc da đỏ. Bây giờ hoàn toàn quạnh quẽ, không một mái lều, không một bóng người. Cây cối mịt mùng. Khí lạnh của cao độ. Trời xanh. Nắng chan hòa. Khuất sau cây rừng rậm rạp, một con suối đổ nước xuống cái vực không mấy sâu; lòng suối nhỏ là cát sạn, chỗ thì nền đã trơn mòn. Bên bờ suối có nhiều tản đá rộng. Trên mặt đá còn lưu dấu vết của người xưa: những lỗ trũng con con. Dân da đỏ nghiền hạt để làm món ăn, đã dùng cái lỗ trũng này như là một thứ cối đá để giã hạt. Dẻ nát đá mòn.

Chúng tôi chọn một tản đá lớn, cùng nhau ngồi ăn bữa sáng; ăn uống, chuyện trò khá lâu, trước khi tiếp tục leo núi xem cây hồng sam. Bấy giờ gần cuối xuân nhưng trên núi hãy còn từng đống tuyết. Đống nhỏ thôi, rải rác. Du khách không có mấy, chim chóc cũng vắng. Giữa núi non tĩnh mịch, những cây hồng sam cao nghênh ngang, to lớn dị thường. Quá đổi dị thường: Cả một chiếc xe Volkswagen có thể chui qua lỗ hổng của thân cây tét đôi, cả một gia đình đông đảo có thể đứng giăng ngang mà chụp hình để ghi nhớ cái bề rộng của thân cây đã hưởng bốn, năm nghìn tuổi thọ.

Mười hai năm sau, bây giờ mỗi lần hồi tưởng lại, tôi vẫn chưa thoát nổi cái sững sờ hồi đó. ‚Ờ kìa! mình đang đối diện với một cuộc sống bắt đầu tự thuở vua Hùng Vương!‛ Năm nghìn năm: khi đấng Hùng Vương thơ ấu ngày ngày rình rập một ổ chim non trên cành cây thì đó cũng là thời thơ ấu của cây hồng sam nầy đây. Ước chừng bấy giờ nó cùng tầm một đứa bé. Vua Hùng truyền ngôi, công chúa Hùng lấy chồng thần Núi thần Nước v.v… những sự việc như thế diễn ra cùng thời với các cây hồng sam nầy cả. Rồi vua chúa đi vào thiên thu, mút xa cõi mịt mù u huyễn … Cây hồng sam vẫn còn đứng đây. Sừng sững, với mớ tuyết nhỏ thấm ướt lẹp nhẹp dưới  chân, với mấy sợi mây mỏng trên đầu, một buổi xế trưa sáng rực mà vắng vẻ. Chúng tôi nhìn ngắm, sờ mó, xô, vịn vào thân cây, ngạc nhiên về cái sự thực giản dị của nó.

Lúc thẩn thơ dưới gốc cây già trên núi cao đã thế, lúc ngồi trên thạch bàn ở lưng chừng núi, tần mần cho mấy ngón tay ngoáy vào những lỗ đá lớn bằng miệng chén trà, cũng đâm ra tần ngần nghĩ ngợi về cảnh ngộ trôi dạt của đời mình: Một đứa bé sinh trưởng ở làng quê dưới chân dãy Trường Sơn bên Việt Nam như mình sao lại đến nỗi có ngày ngồi ngẩn ngơ giữa cao độ um tùm miền tây lục địa Mỹ châu, ngồi mà nhíu mũi hít thứ hơi nước lạnh ngắt của từng đám mây kéo lê thê ngang đầu, mà tay thì mày mò táy máy sờ soạng vào chỗ cội rễ của một dân tộc lạ hoắc ? Giữa mình với mấy lỗ đá con con nầy, với nền văn minh nầy, với dân tộc nầy, sự cách xa về thời gian cũng như không gian thật là thăm thẳm.

Thời gian nó uy hiếp mình. Khoảng rộng nó uy hiếp mình.

Người Mỹ khoái du lịch. Mỗi kỳ nghỉ mỗi đi. Các trung tâm du lịch đông nghìn nghịt, có nơi hàng năm thu hút ba bốn triệu du khách. Xứ nầy có đẹp chăng ? non sông có gấm vóc chăng ? cái đó tùy con mắt từng người, không thể quyết được. Nhưng có điều phải chịu là trên cõi lục địa Mỹ châu có những cái lớn lao quá cỡ, những cái “quá đáng” làm ngợp người. Cây già trên núi California đã ghê, hố thẳm Grand Canyon ở Arizona càng ghê: hàng trăm triệu năm sớm chiều phơi trần ra trước mắt mình. Hoặc đi nửa ngày trên xa lộ từ Grand Canyon qua Las Vegas, lượn vòng vèo dưới những ngọn núi đỏ, len lách giữa bao nhiêu hình thù kỳ dị dựng lên ngất ngưởng mà câm lặng vùng thung lũng Zion, dội lên giữa trời những oằn oại của quả đất dưới một sức mạnh kinh hồn, oằn oại từ muôn triệu năm xưa chưa nhòa dấu vết; hoặc một buổi sáng tinh  sương đứng trước cái mạch nước nóng Old Faithful nhìn quanh quất núi rừng bao la với hàng đôi ba trăm ngọn nước tư bề ùn ùn phun lên từng chặp trắng xóa suốt đêm ngày, nghĩ đến cuộc sống hoang dã trong khu vực giải trí Yellowstone rộng trên hai triệu mẫu; hoặc một chiều nào đó thả bộ dưới chân thác Niagara, nghe tiếng nước đổ ầm ầm đều đều, nhìn đám người li ti áo quần xanh đỏ tím vàng, chỗ đông chỗ thưa, lăng xăng ngược xuôi, nhìn lũ hải âu vô số chi chít bay tả tơi tán loạn trên nền trời đầy mây xám v.v…, cảnh nào cũng làm mình chơi vơi cả. Những lúc như thế chợt thấy những chạy vạy bon chen trong sở làm, những hục hặc gầm gừ trong gia đình, những lo lắng băn khoăn trong việc làm ăn, thậm chí cả ‚mối tình lớn‛ trong đời mình cũng đâm ra vô nghĩa. Mọi thái độ trịnh trọng đầu hóa ra buồn cười.

Vả lại, không cần đến khung cảnh hùng vĩ mênh mông mới uy hiếp nổi mình. Lắm khi chỉ một cái cỏn con. Một hôm lật qua lật lại quyển sách, xem chơi mấy tấm hình bồn-tài, bỗng gặp một cây kiểng cao 32 inches ” chừng tám tấc tây ” một cây tùng đuôi cọp (hổ vĩ tùng, ezo matsu) giống quê quán miền đoảo Kurile bên Nhật. Nhìn qua lời ghi chú thì cái cây tùng cao bốn gang tay ấy đã từng sống một nghìn năm trong chậu.

Một nghìn năm! hồi ấy vị tổ tiên xa nhất của dòng họ mình lênh đênh ở chỗ mờ mịt nào nhỉ ? Những tài liệu xưa nhất còn giữ gìn được trong nhà chỉ cho biết chừng năm trăm năm về trước tổ tiên còn ở Hải Dương ngoài Bắc. Từ khi con cháu vào Trung, rồi đất nước phân chia, lìa đứt cội nguồn, không còn ai biết gì về gốc gác nữa. Tổ tiên không còn kỷ niệm, không tên họ nữa. Tông tích tan biến mất vào chỗ mông lung. Ôi thôi, còn nhắc làm chi đến đám hát mừng ông cử nhân đầu tiên trong họ, đến vụ kiện tranh chấp gia tài giữa hai ba chi phái  gây xấu hổ cho cả họ hàng v.v…, những biến cố lớn lao ấy thoắt cái thành ra chuyện buồn vui ngắn ngủi, cỏn con.

Cái rộng lớn, cái lâu dài là thế. Còn những đảo điên của thế cuộc? Thế cuộc là món đặc biệt của thế hệ nầy. Cách mạng lớn cách mạng nhỏ ba bảy lần. Kháng chiến vì độc lập, chiến tranh ý thức hệ, đánh nhau với đế quốc đỏ, với thực dân trắng, có bom chùm bom dây, có B52 v.v… cẩn thận, trong đôi ba mươi năm; lại có những hầm chôn người tập thể giết người không cần thứ bom đạn nào cả v.v…, những cái đó có lay động tâm hồn chăng ?

– Tất nhiên. Ai mà không nghe tang thương chết chóc thấm vào thơ Nguyễn Bắc Sơn, Tô Thùy Yên ? Và sau giai đoạn thơ Nguyễn Bắc Sơn Tô Thùy Yên, còn là giai đoạn của cuộc tù đày hàng triệu người, của những thảm cảnh giữa đại dương, rồi các thay đổi liên tiếp long trời lở đất ở Đông Âu, ở Nga Xô, ở khắp thế giới cộng sản, sự biến dạng của cục diện toàn cầu trong khoảnh khắc v.v…, những cái đó tất nhiên phải làm ngẩn ngơ bàng hoàng, phải thấm sâu vào tâm hồn một thế hệ nữa chứ.

Dù ta có làm chính trị, có suy nghĩ viết lách về chính trị hay không viết gì về chính trị, dù ta chỉ ngông nghênh kể chuyện Liêu Trai, ham làm độc có một món thơ tình v.v…, thiết tưởng đâu đó trong ta vẫn có dấu ấn của những đảo điên thời đại. Sự thẩm thấu lần hồi của các biến động lớn có thể ta không hay biết, có thể tích lũy vô ý thức. Có thể ta không cần rướn cao cổ ‚nói lên‛ một cái gì lớn lao cả. Không, nói lên nói xuống : không cần. Không cần lấy tư cách một lớp tuổi nầy nói với một lớp tuổi nọ, nhân danh thế kỷ nầy nói với thế kỷ kia, nói về một sứ mệnh, nói lên những trăn trở, những ưu tư rất om sòm. Không cần. Những cái âm thầm ngấm vào tâm hồn rồi tự  nó sẽ có các biểu hiện vô ý thức còn quan trọng hơn là một phô diễn cố tình.

Thành thử đâu có lớp hậu sinh nào thật ‘chì‛? Trong giọng thơ của một số tác giả trước 75, người ta thấy lắm khi cái thân thế còn chẳng xem ra gì nữa là sự nghiệp: bọt biển mây ngàn cả.

Nhân đây nghĩ đến cái diễn biến tâm hồn của một thi sĩ đã trải qua lắm tang thương : Quách Tấn.

Trước 1945 Quách Tấn cũng không khỏi có chuyện buồn (đời thi sĩ mấy khi vui vẻ ?) Trong thơ ông bấy giờ, nếu muốn, ai nấy tha hồ nhặt ra những câu sầu, những giọt lệ, tiếng khóc v.v… Ông viết về một cảnh chiều:

‘Khói mây quanh quấn hồi chuông vọng
Trời biển nao nao tiếng địch dồn.‛
(Chiều xuân)

Rõ buồn. Nhưng bấy giờ có cái nôn nao. Sau nầy chúng ta gặp những buổi chiều khác hẳn:

‘Chim chiều kêu trước dậu
Gối sách nhìn hư không‛
(Hư tâm)

hay:

‘Hiên mận dừng tay bút
Chiều rơi chiếc lá khô.‛
(Dừng tay bút)  

Không có lời than thở nào. Chẳng qua là nằm gối sách, là ngồi ngưng bút, vậy thôi. Nhưng tiếng chim kêu tiếng lá khô rơi rụng, nó tịch mịch quá chừng.

Ngày trước, cái sầu của ông có lúc thật rực rỡ trong những câu thơ huy hoàng:

‘Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng‛
(Đêm Thu nghe tiếng quạ)

cái nhớ thương của ông có lúc xôn xao rộn ràng:

‘Tôi khóc tôi cười vang cả mộng
Nhớ thương đưa lạc gió qua mành.‛
(Mộng thấy Hàn Mặc Tử)

Sau nầy, khi con trai tử trận, ông không nói nên lời, cũng không khóc nên thành tiếng nữa:

‘Canh tàn nằm nuốt lệ
Thời loạn kiếp nam nhi‛
(Khóc con IV)

Nhất nhất cái gì cũng quạnh quẽ, hiu hắt, tịch mịch. Những cái ấy gói ghém trong hai mươi chữ của bài ngũ ngôn tứ tuyệt thật hợp. Lời thơ ngắn, không thể ngắn hơn. Nhưng không duỗi ra hết ý. Như ghìm nén cảm xúc. Như thể canh tàn nuốt lệ.

Thơ Quách Tấn sau 1954 rất nhiều. So với trước không phải là hay hơn. Những bài ngũ ngôn như trên đây có lắm bài không thể bảo là hay. Nhưng đọc đi đọc lại hồi lâu, tự dưng… sờ sợ. Một mình giữa một ngôi nhà vắng, giữa ngọn đồi hoang,  giữa quãng đồng không đã có thể sợ hãi; huống hồ lạc vào giữa một tâm hồn, một không gian tinh thần tịch mịch.

Thời vừa qua không thiếu những kẻ ngất ngưởng, hào sảng, khinh thường sống chết, rượu say túy lúy coi trời bằng vung, không thiếu kẻ đại ngôn, ngày ngày toàn nói chuyện tồn sinh, hiện sinh, hiện hữu, chuyện càn khôn vũ trụ v.v… Quách Tấn không sở trường triết lý, không niềm tin tôn giáo, không xông pha trận mậc, không rượu không say … Quách Tấn sống lặng lẽ, sống âm thầm ở tỉnh lẻ. Trước năm 1975 rất nhiều năm hiếm khi thấy bóng ông ở Sài Gòn. Ông ít bạn bè, ít giao du, ngay cả trong văn giới. Quanh năm, chẳng mấy khi thấy báo chí nào đăng thơ ông, hiếm khi có nhà xuất bản in thơ ông trong nước. Ngay cả ở những số báo Tết thường là chỗ gặp gỡ đông đảo văn thi sĩ cũng ít thấy thơ Quách Tấn. Mọi người cơ hồ quên hẳn ông.

Ở Mỹ một hôm đầu năm 1990 có người bạn chủ báo nhiều tình cảm, sực nhớ đến Quách Tấn, và hỏi:

– Cụ Quách Tấn qua đời ngày tháng nào nhỉ ? Mình nên có một số báo kỷ niệm ông cụ chứ ?

Tôi ậm ờ lạc lõng :

– Quách Tấn mất rồi à ?

– Ơi! Thế cụ vẫn còn sức khỏe hả anh ?

– Ấy, ấy … Để xem … Để tôi hỏi lại anh em xem … Năm vừa qua có nhiều văn thi sĩ tiền chiến ra đi … (2)

Sự lúng túng ấy không có gì quá đáng. Ngay hồi trước 75, giữa văn giới ông đã khuất dạng, đã là một sự vắng thiếu còn nguyên xương thịt, huống hồ ngày nay cách một đại dương!

Quách Tấn là người như thế. Ông không đi nhiều, không thấy bao nhiêu cảnh lớn lao hùng vĩ, không vào nam ra bắc gì  ráo. Ông chỉ vào ra một thư phòng, một mái hiên, một khoảnh vườn, nghe một tiếng lá, nhìn một tia nắng của thường nhật và chỉ viết về những cái như thế. Nhưng thơ ông, nhất là các bài thơ con con của ông sau nầy, gây một sự sợ hãi vu vơ, mơ hồ, mà mênh mang. Sợ hãi trước sự tịch mịch.

Không ai nghĩ rằng ngẫu nhiên sau nầy Quách Tấn gặp nhiều cảnh tịch mịch hơn trước, hay đất trời sau nầy chợt hết nôn nao. Không có ngẫu nhiên nào. Đây là cái tịch mịch của một cuộc đời đã trải qua nhiều tang thương, của một tâm hồn thấm nhiễm quá nhiều cái vô thường của thế cuộc.

Võ Phiến

CHÚ THÍCH
(1) Đông Pháp Thời Báo, số ra ngày 17.12.1927.
(2) Ông mất ngày 21.12.1992

Nguồn: Đặc San Lại Giang 2010
  

   Số lần đọc: 2774

BÌNH LUẬN

Vui lòng viết bình luận của bạn
Vui lòng điền tên của bạn ở đây

Bài Cùng Tác Giả

Anh Bình Định

Bánh Tráng Bình Định