
Tuan.V Nguyen AM
Hơn 40 năm sau làn sóng thuyền nhân, người Việt vẫn liều mình vượt biên trong hành trình tìm tự do đầy gian truân. Cuốn ‘Thuyền Nhân Việt Nam Thời Hiện Đại’ [1] của tác giả người Úc gốc Do Thái Shira Sebban kể lại những câu chuyện đau thương nhưng vẫn le lói những tia hi vọng.
Sau năm 1975, hàng triệu người Việt Nam đã rời bỏ quê hương trong làn sóng tị nạn kéo dài từ 1975 đến 1990, đối mặt với những chuyến vượt biển đầy hiểm nguy để tìm tự do. Những con thuyền nhỏ bé chở theo hy vọng mong manh, giữa muôn trùng sóng gió và hải tặc, đã trở thành biểu tượng của lòng kiên cường và khát vọng sống. Làn sóng này đem lại cho từ điển tiếng Anh một thuật ngữ mới: ‘boat people’ (thuyền nhân).
Nhưng không ai ngờ rằng, hơn ba thập niên sau, người Việt vẫn tiếp tục liều mình ra đi, và số phận của họ thậm chí còn gian truân hơn những thuyền nhân thời trước. Những thuyền nhân hiện đại không chỉ đối mặt với biển cả khắc nghiệt mà còn bị từ chối tư cách tị nạn, hoặc dù được công nhận là người tị nạn, họ vẫn bị các quốc gia thứ ba khép cửa. Họ lệ thuộc vào lòng trắc ẩn của chúng ta, những người đi trước, những người từng trải qua hành trình tương tự và hiểu rõ nỗi đau của sự li hương. Chính trong bối cảnh đó, tôi tìm thấy sự đồng điệu sâu sắc với cuốn sách Thuyền Nhân Việt Nam Thời Hiện Đại của Shira Sebban, mà tôi biết đến qua buổi ra mắt đầy cảm xúc tại Trung tâm Sinh hoạt Cộng đồng Việt Nam ở Sydney. Là một người thuyền nhân từng được Úc chấp nhận tái định cư năm 1982, tôi cảm nhận cuốn sách như một chiếc cầu nối giữa quá khứ của mình và những câu chuyện đau thương nhưng đầy hi vọng của thế hệ sau.
Tác phẩm của bà Sebban, một người Úc gốc Do Thái, mở đầu với câu chuyện đau lòng nhưng đầy cảm hứng. Một nhóm gồm 20 người Việt Nam từ Bình Thuận, tiêu biểu là ba người mẹ cùng 12 đứa con, những người liều mạng rời bỏ quê hương vì sự phân biệt đối xử tôn giáo và mất mát tài sản do chánh phủ tịch thu. Năm 2015, họ lên một con thuyền nhỏ, thiếu thốn, hướng ra biển cả với giấc mơ tìm tự do tại Úc. Nhưng hi vọng của họ bị tan biến khi hải quân Úc chặn lại trong hải phận của Úc, và Chánh phủ Úc trả họ về Việt Nam qua một qui trình sàng lọc đầy tranh cãi. Hậu quả là những người tổ chức chuyến đi, như ông Hồ Trung Lợi, bị bắt ngay sau khi hồi hương và chịu án hai năm tù, trong khi vợ ông, bà Trần Thị Thanh Loan, suýt đối mặt với ba năm tù nếu không có lệnh ân xá vào phút cuối. Bà Loan phải chăm sóc bốn đứa con từ 4 đến 16 tuổi.
Nỗi đau không dừng lại ở đó. Năm 2017, các gia đình này lại tiếp tục mạo hiểm trốn chạy lần thứ hai, nhưng chiếc tàu nhỏ của họ bị lật ngoài khơi Nam Dương (Indonesia) sau khi va vào rạn san hô. Họ được cứu, nhưng lại mắc kẹt tại Nam Dương suốt 5 năm trời. Trong thời gian đó, họ sống trong trong một trung tâm giam giữ di trú với điều kiện khắc nghiệt, nơi mà phụ nữ và trẻ em bị nhốt trong những căn phòng khóa trái, không cửa sổ, không ánh sáng tự nhiên, ngủ trên nệm trải sàn và phơi đồ trên dây căng phía trên; còn các trẻ em không được đi học vì không có tư cách pháp nhân.
Đến năm 2022, nhờ sự giúp đỡ không ngừng nghỉ của bà Sebban, cộng đồng người Việt ở Queensland (Úc), thượng nghị sĩ gốc Việt Ngô Thanh Hải (Gia Nã Đại / Canada), và chương trình Bảo trợ Tư nhân cho Người Tị nạn của Gia Nã Đại, nhóm người này cuối cùng cũng được chấp nhận cho tị nạn ở Gia Nã Đại. Tại Gia Nã Đại, họ được bảo đảm nhà ở, việc làm và cơ hội cho trẻ em trở lại trường học.
Làm sao bà Shira Sebban biết đến họ? Bà là một nhà văn và nhân viên di trú tại Sydney. Ba Má bà (người Do Thái) cũng từng là người tị nạn và được Úc cho định cư vào những năm trong thập niên 1940. Trong một lần đọc báo Úc, bà Sebban thấy xúc động bởi số phận của các gia đình. Bà liên lạc với luật sư Võ An Đôn tại Việt Nam và bắt đầu hành trình hỗ trợ. Từ việc gây quĩ để ngăn con cái bà Loan rơi vào trại trẻ em mồ côi, bà mở rộng nỗ lực qua ba chiến dịch gây quĩ cộng đồng, hỗ trợ 5 gia đình trong hoàn cảnh tương tự. Cuốn sách không chỉ kể lại hành trình của người tị nạn mà còn khắc họa sự đoàn kết của các nhà hoạt động, từ hợp tác với các tổ chức như UNHCR, VOICE Canada, đến những tấm lòng nhân đạo như mua máy tính cho một trẻ em hay chi trả học phí cho một bé gái ở Nam Dương. Những chuyến thăm của bà Sebban năm 2018 và năm 2022, cùng việc chứng kiến lễ tốt nghiệp của một thanh niên được hỗ trợ, là minh chứng cho sức mạnh của lòng trắc ẩn và sự hào phóng của cộng đồng. Chi tiết bà tặng từ điển Anh-Việt cho các gia đình khi họ nhận được người thường trú tại Gia Nã Đại chạm đến trái tim tôi, như một biểu tượng của sự đồng hành và hi vọng cho một tương lai mới.
Hành trình đưa cuốn sách tới tay độc giả là một chặng đường đầy gian nan nhưng cũng tràn ngập cảm hứng. Tác giả Sabban chia sẻ rằng tại Úc không một nhà xuất bản nào mặn mà với cuốn sách của bà, cho rằng câu chuyện về người tị nạn đã ‘lỗi thời’ và khó thu hút độc giả. Tuy nhiên, ngọn lửa đam mê và giá trị của câu chuyện đã chinh phục Nhà xuất bản McFarland tại Mĩ, nơi họ bị cuốn hút bởi tính nhân văn và cảm xúc sâu sắc của tác phẩm.
Để câu chuyện chạm đến trái tim người Việt, dịch giả Hồ Trọng Hiệp (Úc) đã tâm huyết dịch sang tiếng Việt, và cuốn sách được Nhà xuất bản Quill Hawk tại Mĩ phát hành. Đằng sau thành công này là Amy Le, CEO của Quill Hawk, một cựu thuyền nhân gốc Việt rời Trà Vinh sau 1975 khi còn rất nhỏ. Từ bỏ sự nghiệp high-tech, Amy Le dấn thân vào con đường văn chương, trở thành nhà văn, diễn giả và nhà xuất bản với sứ mệnh nâng tầm tiếng nói của người Mĩ gốc Á trên trường quốc tế. Tác giả Sabban trìu mến gọi Amy là ‘bà đỡ’ tuyệt vời, người đã chắp cánh cho tác phẩm của bà vươn xa.
Là người từng lênh đênh trên biển, đối mặt với sóng gió và nỗi sợ hãi, tôi không khỏi xúc động khi đọc về những khó khăn và hiểm nguy mà các gia đình này trải qua. Nỗi đau của bà Loan khi chứng kiến con cái bị gọi là ‘kẻ phản bội’ trong những buổi chào cờ tại trường, sự quấy nhiễu của nhà cầm quyền tại sạp trái cây, hay hình ảnh những đứa trẻ sống trong trung tâm giam giữ như nhà tù, tất cả gợi lại kí ức sống động của một thời đen tối. Nhưng hơn cả, cuốn sách là một lời khẳng định rằng hi vọng, dù mong manh, vẫn dẫn lối qua bóng tối. Lời tuyên bố dứt khoát và thản nhiên của bà Loan, “Nếu muốn trục xuất chúng tôi, hãy bắn chết tất cả đi”, không chỉ là phản kháng mà còn là biểu tượng của ý chí bất khuất, nhắc nhở rằng kiên cường là ngọn đuốc soi đường trong nghịch cảnh.
Tác phẩm Thuyền Nhân Việt Nam Thời Hiện Đạimang đến nhiều bài học sâu sắc. Trước hết, nó cho thấy lòng nhân ái có thể thay đổi số phận. Những hành động của bà Sebban và các nhà hoạt động xã hội, từ cứu một gia đình khỏi cảnh li tán đến mang lại cho họ một cuộc sống mới tại Gia Nã Đại, minh chứng rằng một cá nhân hay cộng đồng nhỏ đều có thể tạo nên phép màu. Những đóng góp như mua máy tính hay hỗ trợ học phí cho trẻ em không chỉ là vật chất mà còn là những tia sáng hi vọng, thắp sáng vào niềm tin. Cuốn sách là tiếng nói mạnh mẽ cho công lí, phê phán những chánh sách nhập cư khắc nghiệt như qui trình của Úc, vốn làm ngơ quyền con người, đồng thời kêu gọi cải cách để bảo vệ những người tị nạn mong manh. Sự tương phản giữa chánh sách kiểm soát biên giới của Úc và cách tiếp cận nhân đạo của Gia Nã Đại đặt ra câu hỏi về trách nhiệm của các quốc gia văn minh. Cuối cùng, tác phẩm là một ‘ca khúc’ về sự kiên trì và quyết tâm. Dù đối mặt với tù đày, giam giữ, và nguy cơ, các gia đình này không bao giờ từ bỏ giấc mơ tự do. Câu chuyện và hành trình của họ là một minh chứng rằng hi vọng là sức mạnh vượt qua mọi thử thách, và lòng dũng cảm là chiếc chìa khóa để viết nên những câu chuyện có kết cục hay.
Thuyền Nhân Việt Nam Thời Hiện Đại là một cuốn sách không thể bỏ qua, không chỉ dành cho những nhà hoạt động xã hội, nhà nghiên cứu về tị nạn, hay người quan tâm đến chánh sách nhập cư, mà còn dành cho bất cứ ai tin vào sức mạnh của con người trong nghịch cảnh. Với mỗi người, cuốn sách không chỉ là câu chuyện về những người dám thay đổi mà còn là tấm gương phản chiếu quá khứ của chính mình, một lời nhắc nhở rằng hành trình tìm tự do luôn đòi hỏi lòng dũng cảm và sự đoàn kết. Tác phẩm của bà Sebban không chỉ kể một câu chuyện mà là lời kêu gọi hành động, để thế giới không để lại những tiếng nói bị chìm khuất và tiếp tục đấu tranh cho tương lai công bằng hơn. Đây là cuốn sách không để đọc, mà để cảm nhận và hành động, để mỗi người trở thành một phần của câu chuyện về hi vọng và tự do.
____
[1] “Thuyền Nhân Việt Nam Thời Hiện Đại Vươn Tới Tự Do” của Shira Sebban, dịch giả Hồ Trọng Hiệp dịch từ nguyên bản tiếng Anh “Vietnam’s Modern Day Boat People: Bridging Borders for Freedom” do McFarland xuất bản năm 2024 (236 pages). Bản tiếng Việt do Nhà xuất bản Quill Hawk xuất bản vào năm 2025.
 Số lần đọc: 242
   Số lần đọc: 242

 
 
 
 
