Trang sinh hoạt của Cựu Giáo Sư và Học Sinh trường Trung Học Cường Đễ Qui Nhơn

Mùng Ba Tết Thầy

Nguyễn Nhạn Sơn

Vo Ai NguNgày xưa, trong dân gian, người ta thường nói:”Mùng một tết cha, mùng ba tết thầy“, hoặc “Mùng một thì tới nhà cha, mùng hai nhà vợ, mùng ba nhà thầy“. Đó là thứ tự đến thăm và biếu quà cho cha mẹ mình, cha mẹ vợ và thầy học nhân dịp tết nguyên đán. Tục lệ nói như vậy nhưng trong thực tế có hơi khác. Về phần đi thăm, thứ tự giữa cha mẹ ruột và cha mẹ vợ được phép linh động. Riêng việc đi thăm thầy học, học trò thời chữ Hán phải giữ đúng ngày mùng ba. Về phần biếu quà, dù là biếu cho ai, phần nhiều người ta cũng đem biếu trước tết. Có lẽ là để quà được đem ra dùng trong những ngày đầu năm.

Nhưng trước khi đi vào thực tế, xin được nói qua về chữ nghĩa một chút.

Tiếng Việt của chúng ta là một thứ tiếng linh động vào bậc nhất trong thiên hạ. Linh động đáng kể hơn hết là về mặt từ loại (parts of speech; parties du discours). Tiếng Hán đã nổi tiếng dể dàng đổi từ từ loại này sang từ loại khác mà vẫn giữ nguyên dạng nhưng đem so với tiếng Việt thì còn thua xa. Ở đây, chúng ta chỉ cần nêu ra một chữ ‘tết’ là đủ thấy.

Chữ “tết” trong tiếng Việt có gốc ở chữ “tiết” (viết với bộ “trúc”) của chữ Hán.”Nguyên đán tiết” thành “tết nguyên đán“; “tết đoan ngọ” là “đoan ngọ tiết“. Nhưng khi tiếng Việt chuyển “tết” sang “động từ” thì chữ Hán hụt hơi, không chạy theo kịp. Nhân dịp tết nguyên đán hay ngày đoan ngọ, một chàng trai đã dạm vợ nhưng chưa cưới, phải có quà cáp đem biếu cha mẹ vợ, tục gọi là đi “tết vợ“. Hai chữ “tết vợ” này không thể dịch ngược sang chữ Hán là “tiết phụ” vì “tiết phụ” thì chồng đã chết còn “tết vợ” thì chồng còn sống, và đang có bổn phận phải làm vui lòng nhà vợ. Không “tết vợ” thì có thể bị bắt lỗi, thậm chí còn có thể mất vợ mà còn mất luôn cả những lễ vật đã nộp trước đó. Tục lệ đã định: Trai chê vợ của đổ xuống sông; gái chê chồng của một đền hai.

Trong Hán văn, chữ “tiết ” cũng được dùng như động từ, nhưng không có nghĩa biếu xén, mà ngược lại. “Tiết thực” là “giảm ăn”; “tiết dụng” là “giảm tiêu dùng”; “tiết dục” là “giảm ham muốn”; “tiết y xúc thực” là “giảm ăn giảm mặc”. Còn “tết” ở đây là phải bỏ tiền ra mua quà để đem đi cho, đâu có giảm gì được? Vậy mà “tiết” là gốc của chữ “tết” mới lạ! Thế mới biết học trò cũng có khi giỏi hơn thầy.

Bây giờ xin nói chuyện “tết thầy“. “Thầy” nói đây là “thầy dạy”, dạy chữ hoặc dạy nghề, không tính thầy thuốc. Thầy thuốc tuy cũng được tiếng Việt gọi là thầy và đôi khi cũng được quí trọng (như đã từng cứu sống cha mẹ, vợ con), nhưng không được coi là người phải “đi tết” vào những dịp mùng năm (đoan ngọ), ngày tết. Thầy dạy nghề tuy cũng được chữ nghĩa gọi là “sư” nhưng không được truyền thống dân ta đặt ngang hàng với thầy dạy học. Vậy “tết thầy” nói đây là tặng quà cho thầy dạy học của mình.

Năm 1961, tôi bị gọi đi khoá 12 sĩ quan trù bị. Thụ huấn trong khoá này cũng có một ít người trẻ tuổi tình nguyện, nhưng phần đông là những người đã ngoài ba mươi, trong số này có khá nhiều người vốn làm nghề dạy học ở ngoài đời. Anh Võ Ái Ngự là một.

Tôi được xếp chung trung đội với anh Ngự. Ban đầu tôi cũng ít nói chuyện với anh nhưng về sau thì tôi nhận thấy ở anh có những điều đáng chú ý. Trước hết là anh nói đùa rất có duyên.

Sau đêm sinh viên sĩ quan toàn khoá được gắn “alpha“, anh Ngự mời tôi vào câu lạc bộ uống cà phê. Tôi còn ngần ngừ vì đang tính vào thư viện mượn sách về đọc thì anh kéo tay:

– Đi với moa đi, nếu không thì toa bỏ mất cơ hội để khoe khoang với bà con sau này đấy.

Tôi còn ngẩn ngơ vì chưa hiểu lời anh thì anh đã nói tiếp:

– Bây giờ tụi mình là trung sĩ nhưng sau này tụi mình sẽ lên tướng. Lúc bấy giờ thiếu gì người muốn nói cho thiên hạ biết là đã cùng “promotion” (1) với Võ Ái Ngự. Toa uống cà phê với moa thời còn là trung sĩ thì lại càng có cớ để khoe khoang.

Tôi đành phải cười theo và đi uống cà phê với anh sáng hôm ấy. Từ đó nhiều anh em trong trung đội gọi đùa Ngự là “tướng già“, mà trông Ngự già thật, già hơn tuổi nhiều. Có lẽ Ngự cũng chỉ ngang hoặc nhỏ tuổi hơn tôi (năm ấy tôi 31). Anh người tầm thước, mình mẩy gân guốc, nét mặt khắc khổ, da thật đen. Có lẽ anh có vẻ già là do nước da và nét mặt. Nhưng tính anh rất hay đùa cợt. Chỉ có cái ý “cùng promotion với moa” mà anh đem ra nói hoài không chán, mà chúng tôi nghe hoài vẫn thấy vui.

Vì thuộc cùng một trung đội, hai chúng tôi có cùng những kỷ niệm chung. Đối với người khác chắc không đáng gì để nhắc lại, nhưng phần riêng, tôi nhớ mãi. Và có lẽ Ngự cũng vậy, nếu bây giờ anh còn nhớ được.

Một buổi chiều, sau giờ cơm, Ngự hỏi tôi:

– Ngày mai thi môn “đi hành”, toa thuộc bài chưa?

– Test hay vấn đáp?

-Vấn đáp, nếu là “A, B, C khoanh ” thì cần gì phải coi bài

Khi trở về phòng, tôi mở bài “đi hành” ra đọc vài lần rồi lấy sách ra coi. Nhìn sang giường bên cạnh, tôi thấy Ngự cũng đang đọc sách. Chủ nhật trước đó, chúng tôi đã cùng đến thư viện mượn sách. Nghe lời Ngự, tôi đã mượn cuốn “Tu viện thành Parme” (La Chartreuse de Parme) của Stendal. Còn anh, mượn cuốn “Nhà thờ đức bà Paris” (Notre Dame de Paris) của Victor Hugo. Nhưng chúng tôi chỉ đọc được vài mươi trang thì bị sĩ quan trực đại đội đi tuần bắt gặp, buộc cất sách và đem bài đến văn phòng đại đội ngồi học cho đến khuya mới được về. Rồi sáng ngày mai, trong lúc tập họp toàn đại đội, chúng tôi lại bị cảnh cáo trước hàng quân về tội đọc tiểu thuyết trong giờ đáng lẽ phải học bài. Sau khi cảnh cáo chung, sĩ quan trực còn nói thêm một câu mà cho tới bây giờ tôi vẫn không hiểu:

– Đọc “Nhà thờ Đức Bà” thì còn được, chớ đọc quyển kia thì….”

Về sau, Ngự tự nhận xét: Sĩ quan trực nghĩ đến ngày moa lên tướng nên ngay bây giờ đã phải nể nang!

Thời khoá 12, mặt ngoài cổng trường Thủ Đức mang chữ “Trường Bộ Binh”, mặt trong có 4 chữ “Cư An Tư Nguy” (Lúc sống trong yên ổn nên nghĩ đến lúc biến động) nhưng Ngự cứ hay đọc đùa là “Cứ Ăn Cứ Ngủ”, và cũng có lần suýt bị phạt vì tánh hay đùa cợt này.

Lúc bấy giờ chỉ huy trưởng của trường là thiếu tướng Hồ văn Tố và trung đoàn trưởng sinh viên là thiếu tá Tạ Thành Long. Ông thiếu tá này hay làm khó sinh viên bằng cách cứ khoảng sau nửa đêm, đến từng đại đội thổi còi tập họp. Trong thời gian 5 phút, tất cả sinh viên đều phải đứng đủ vào hàng, với đồ trận, với mũ sắt, và đầy đủ súng đạn và quân dụng, như sắp sửa ra trận tác chiến. Việc làm mất nhiều thời giờ hơn hết là đi đôi “botte de saut” với mấy chục lổ xỏ dây; Nhiều anh em đã làm theo cái sáng kiến “lổ xỏ lổ chừa”, nhưng với người chậm thì vẫn không kịp. Cuối cùng trong chúng tôi, có người đêm nào cũng ngủ mặc sẵn đồ trận, thậm chí có người còn mang luôn “bốt” lên giường mà ngủ. Ngự ở trong số này, nên lần tập họp nửa đêm nào anh cũng ở trong những người đứng vào hàng đầu tiên và được khen trước hàng quân.

Khoảng năm 1961- 1962, tình hình miền nam không dược yên lắm nhưng chưa đến nỗi nào, nên sinh viên khoá 12 vẫn còn dược đi phép vào dịp Tết Nhâm Dần (1962). Tôi và Ngự được xếp vào danh sách đi phép sau tết, từ ngày mùng 2 đến ngày mùng 8. Trên chuyến tàu suốt lần ấy, tôi đi Tuy Hoà, Ngự đi Quy Nhơn, tôi mới có dịp nói chuyện nhiều với Ngự và được biét anh dạy tại trường Cường Để. Cùng nhau ngồi uống cà phê tại toa hàng ăn, sáng ngày mùng 3 tết năm ấy anh nói:

– Lẽ ra giờ này moa phải có mặt ở nhà để tiếp học sinh và phụ huynh đi tết.

Tôi hỏi:

– Ngày nay người ta còn giữ lệ “mùng ba tết thầy” sao?

– Sao không còn giữ? Thầy học nhận lễ ngày mùng ba, thì đã chịu nhún nhiều rồi. Quân sư phụ mà!

Rồi anh vui vẻ kể cho tôi nghe nhiều câu chuyện “tết thầy ” thú vị mà anh là người trong chuyện, có khi là thầy, có khi là trò.

Năm ấy anh đi theo thân phụ đến nhà tết ông thầy dạy lớp ba trường làng. Lễ vật là một thúng gạo nếp, khá nặng đối với anh lúc bấy giờ. Trên suốt con đường làng, người bưng thúng nếp là cha anh, nhưng khi đến gần nhà thầy giáo, để cho ra vẻ, cha anh trao thúng nếp cho anh đi, rồi anh lúng túng vấp vào một chiếc rễ cây, thúng nếp đổ đi hơn nửa. Cha anh đã phải trở ra ngôi chợ gần đó  mua một cân đường cát để lên trên thúng nếp, để cho “coi được”.

Vài năm trước đây, một học sinh đệ tứ gốc người Bình Khê (Bình Định) đem biếu anh hai món thổ sản: một bó mía và một giỏ chim mía. Mía thì vì răng yếu, anh chỉ ăn được một cây, phần còn lại đem cho trẻ con hàng xóm. Còn chim mía thì anh đem chiếc lồng ra ngồi trước hiên nhà, mở thả từng con cho bay đi. Nhưng mấy chục con chim nhỏ không chịu bay đi xa, cứ quanh quẩn bờ rào, anh sợ mấy con mèo quanh đó ra bắt ăn thịt, phải chạy ra xua đuổi. Anh kể chuyện xong, ngồi cười mãi, như một người vô tư lự.

Nhưng hình như Ngự không phải người vô tư lự. Cái vui vẻ của anh chỉ là bề ngoài. Lắm khi tôi nhận thấy trên mặt anh có một nét u uẩn khó hiểu. Tuy nhiên tôi không có dịp để biết rằng mình nhận xét có đúng hay không, vì sau đó chúng tôi không còn sống gần nhau nữa

Hết giai đoạn một tôi được đưa lên Bình Dương học tiếp ở trường công binh còn Ngự thì đi đâu tôi không được biết. Lần nói chuyện với nhau trên chuyến xe lửa đi phép là lần nói chuyện sau cùng của chúng tôi. Khi trở về Thủ Đức để làm lễ mãn khoá, chúng tôi không có dịp gặp nhau, cho mãi tới những năm gần đây, đọc những số đặc san Cường Để, tôi mới biết Ngự đã qua đời. Tôi cũng không được biết Ngự mất năm nào, vì sao mà mất, tử trân  tại đơn vị hay chết bịnh khi được biệt phái về dạy học trở lại tại trường cũ… Tôi không biết nhưng cũng không muốn hỏi cho biết. Tôi muốn giữ nguyên vẹn những kỷ niệm giữa nhau, giữa hai người bạn “già” giữa một đám người trẻ hơn, giữa hai người khác tính nhau, một người buồn nhiều hơn vui, một người vui nhiều hơn buồn (hoặc chỉ có vẻ như thế?). Nghe biết những tình huống khác trong quãng đời về sau của anh, có thể mỹ cảm của tôi về anh sẽ giảm đi. Đó là điều tôi không muốn.

Khi biết Ngự không còn, tôi lại hay nhớ lại những chuyện anh đã kể. Nghiệm kỹ, tôi mới lờ mờ hiểu lí do tại sao. Những chuyện đã xảy ra cho anh giống những chuyện đã xảy ra cho tôi. Tại quân trường, anh đi ngủ với quần áo tác chiến thì tôi cũng đi ngủ kiểu như vậy, anh bị cảnh cáo trước đại đội về tội đọc tiểu thuyết trong giờ học bài, thì tôi cũng bị như vậy, anh đi phép tết về trễ bị phạt phải “trình diện dã chiến một tuần”, thì tôi cũng bị giống như vậy…Lúc nhỏ anh phải đi nếp tết thầy và làm đổ thì tôi cũng đã có lần đội lễ vật đi tết thầy, chỉ khác anh đi nếp, tôi đi gạo, anh làm đổ , tôi không làm đổ, nhưng còn tệ hơn là giữa đường gặp bạn học cùng lớp mà tai hại thay lại là bạn học gái, hỏi tại sao không mua rượu xách cho tiện mà phải đội gạo giống như ông Tử Lộ (2) vậy.  Khi lớn, anh làm thầy được học trò đi tết bằng mía và chim mía, còn tôi dạy tư ở miền quê được học trò nghèo trả học phí bằng lúa…Mối tương lân của tôi đối với Ngự, xét cho cùng, là tương lân vì đồng bịnh. Thật đúng với câu “thương người như thể thương thân” trong Gia huấn ca của Nguyễn Trãi (?)

Nguyễn Nhạn Sơn
(Canada)

Chú thích:
(1)  promotion(tiếng Pháp) có nghĩa là “khoá”
(2) Tử Lộ là học trò của khổng Tử, là một trong Nhị thập tứ hiếu, trong sách Quốc văn giáo khoa ngày trước, có hình đội thúng gạo đem lên nuôi mẹ.

PS. Theo Nguyễn Mạnh An Dân thì sau sau khi mãn khoá 12 Thủ Đức, anh Ngự được biệt phái trở về dạy tại trường Cường Để, cho đến 3/1975, phải vào trại cải tạo với cấp bậc trung uý, rồi qua đời tại một trại giam ở Bình Định vào năm 1976.

Nguồn: Đặc San CườngĐể & Nữ Trung Học Qui Nhơn 2005 (cám ơn chị M. đã chịu khó đánh máy lại dùm).
   

   Số lần đọc: 3010

BÌNH LUẬN

Vui lòng viết bình luận của bạn
Vui lòng điền tên của bạn ở đây

Bài Cùng Tác Giả