Trang sinh hoạt của Cựu Giáo Sư và Học Sinh trường Trung Học Cường Đễ Qui Nhơn

Đi Họp

Fly away – November 2005

Chuyến bay QF 93 hôm qua dài quá, ngồi bó chân chịu trận trong cái lon đồ hộp như lời thằng Mỹ bên cạnh cằn nhằn. Mới vừa bước vào khoang máy bay thì đã thấy ông nội với cái thân bồ tượng hơn 120 ki’ lô lù lù bước tới và giới thiệu hàng xóm. Trời ơi! Rõ ràng ra ngõ không coi ngày. Làm sao mà có thể sống sót nổi chuyến bay vượt xích đạo dài hơn mười bốn giờ.

Hắn tươi cười chào hỏi rồi ngồi xuống bên cạnh và trải cái hộp bánh pizza ra bàn và bắt đầu lim dim tận hưởng món ăn vật lạ của Melbourne. Có lẽ hắn sợ rồi đây bên trời bắc Mỹ khó mà tìm được cái hương vị Úc châu nầy chăng. Thằng Captain trưởng phi hành đoàn bước đến vồn vã chào nó và hỏi có cần đem đi nướng lại không? Tôi thầm lo, nó mà chết vì vì bội thực, hay đứt mạch máu là mình ngồi kẹt luôn trong cái ghế giữa này cho đến khi xe cần cẩu tới trục nó ra.

Nó vẫn tươi cười làm quen “Tao đi công tác hoài, đường bay dài nên đem theo đồ nhậu cho vui miệng, trong cặp còn nhiều lắm”
“Ừ! mầy có cần đi ra đi vào thì nói cho tao biết”. Biết rồi thì sao nữa? Làm sao mà ra vô khi mà nó như một cái nút chai khổng lồ bịt kín lối đi.

Thấy vậy mà thật là thú vị khi ngồi bên cạnh thằng này. Nó nói chuyện có duyên vô cùng, đủ chuyện hết. Chuyện bên Tây, bên Mỹ, chuyện nó bị layoff rồi bị vợ bỏ, con xù rồi luân lạc xuống “miệt dưới” làm ăn. Chuyện nó lái xe ở Melbourne downtown, cái hooked turn làm nó suýt đâm sầm vào chiếc xe tram đang trờ tới. “Cái xứ của mầy có lối quẹo kỳ cục quá! chẳng có nơi nào trên thế giới chơi trò nầy!”

Nó tiếp tục ăn uống rồi lăn ra ngủ như bò gặm cỏ non, tỉnh dậy ăn tiếp, toàn đồ ăn Ý mua vội dưới phố Lygon. Nhàn nhã vô tư, thỉnh thoảng lấy cell phone ra chụp hình kỷ niệm “Để tao gởi vào mailbox của mầy coi chơi” Nhờ nó mà tôi biết thêm nhiều về những món mà nó đang rao bán cho công ty. “Bên mầy quê quá, hãng xưởng khoá ngược, khoá xuôi, lượm thượm chẳng đi vào đâu!”

Nó là thằng Mỹ rặt giống thuần chủng hồng mao nhưng lại có tên rất kiếm hiệp Hồng kông “Bruce Lee”. Thỉnh thoảng Bruce tân thời lại vung tay đấm vào không khí khi tôi khen nó đẹp trai hơn cả người tài tử kiếm hiệp bạc mệnh nầy.

Phi cơ đã dừng bánh sau chuyến phi hành dài. Cửa phi cơ vẫn chưa mở vì người ta phải bận cấp cứu cho hai người bịnh.
Hôm qua trong giấc ngủ, mơ màng nghe tiếng phi công gọi tìm bác sĩ. Không có ai trong đám hành khách lên tiếng. Nhưng rồi phi hành đoàn gọi xuống trung tâm y tế hàng không ở Phoenix để được chuyên gia y tế chỉ dẩn cách cấp cứu bịnh nhân. Lúc đó máy bay đang ở đâu đó gần Tonga, nam thái bình dương. Thằng Bruce hãnh diện “Không sao! Ở đâu thì Phoenix cũng lo được hết, toàn cầu hoá mà!”

Khi phi cơ vừa đáp là đã có sẳn xe cứu thương chờ ở cuối phi đạo, sắp xếp gọn bân. Thông tin toàn cầu bây giờ dễ dàng quá!
Hôm qua thấy Lý tiên sinh với va ly đồ ăn căng cứng, nặng trĩu được trịnh trọng mang theo làm tôi ái ngại lo cho kiếp bạc mệnh trên bốn tầng mây, thiên táng vì bội thực nhưng té ra tiên sinh “an toàn xa lộ” mà người khác thì không.

Phi trường LAX sau hơn mười bốn năm mới trở lại vẫn vậy, vẫn bê tông, vẫn nhân viên di trú, chỉ có điều khác là lần này khách tới từ phương xa được yêu cầu tặng George Bush Junior, người đại diện tối cao của quyền lực Mỹ, những đường vân của đôi tay ngà ngọc và hình căn cước lưu niệm. Thấy vậy mà mọi chuyện đều qua rất nhanh, Cảnh sát ở đây làm việc lịch lãm và tế nhị trong công tác khó khăn dể làm nhiều người bất mãn, nhất là sau một chuyến bay dài xuyên lục địa.

Người anh lớn đứng chờ gia đình tôi ở phòng đợi, ánh mắt ngập ngừng lướt qua mái tóc muối tiêu của tôi nhưng rồi vui vẻ gọi lớn khi nhận thấy XB và Đôn đứng đằng sau. Mười bốn năm là một khoảng thời gian rất dài để tôi không còn là người trai trẻ tóc xanh của cuộc hội ngộ lần trước. Anh chị tôi vẫn vậy, bắt buộc phải trẻ trung và năng động của cuộc sống Cali.

Xe nhập xa lộ để về Santa Ana. Giữa giờ trưa mà dòng xe kín mít. Xa lộ Cali như những dòng sông khổng lồ cuồn cuộn trôi. Cuộc sống bận rộn, tất bật vây quanh kín lối, chẳng còn một khoảng trống cho một sự thoải mái cần thiết.

Về đến nhà thì nồi bún riêu đã chờ sẵn, hương vị có khác hơn bún ở Melbourne vì được nấu bằng cua Alaska. Đói bụng nhưng phải chờ hai người bạn của XB chạy qua. Lệ ở Mỹ đã rất lâu và Ngọc mới đóng chốt ở đây từ chiều hôm qua để chờ họp bạn.

Tuy ở giữa mùa đông nhưng thời tiết LA rất dịu, không đột ngột thay đổi nhanh như ở Melbourne. Mùa đông ra đường người ta khoác nhẹ một cái áo choàng mỏng là đủ. Buổi trưa khi trời nắng thì chỉ cần T shirt. Sân sau vườn xanh mướt. Nhãn đã hết mùa nhưng tôi vẫn hái được và ba trái, ngọt và thơm. Ba trái thanh long vẫn còn trên cây chờ tôi. Cây bưởi góc vườn trĩu trái, cây thấp lá nhiều và trái khắp mọi nơi. Bưởi ngọt, nhiều nước và có phần ngon hơn bưởi Năm roi ở Việt nam, quả không hổ danh Orange County. Anh tôi kể là lúc người tị nạn mới qua, quanh đây vẫn còn là những nông trại trồng cam đỏ ối. Cây hồng persimon rất ngọt và nhiều trái được bọc lưới cản chim chờ tôi qua ăn tiếp những trái cuối cùng của mùa năm nay.Ổi cũng rất thích hợp với đất nầy, những trái xá lị lớn như quả táo và rất ít hột.
Vườn sau tuy hẹp nhưng được chăm sóc kỹ càng nên có trái ăn quanh năm và tạo những khoảng xanh thẩm mỹ.

Ăn xong bún riêu cả bọn kéo qua nhà Lệ và hẹn ngày mai sẽ đi Universal Studios.

Thẩm quyền Westminster
7.15pm 2 December 2005

Hôm nay cả nhóm rời Fountain Valley từ sang sớm, đi chung trên một chuyến xe Van. Sáu người đến từ ba nơi khác nhau. Gia đình tôi, ba người lên từ miệt dưới downunder. Ngọc và Tíni mới xuống LA từ xứ lạnh Toronto và anh Du đến từ rừng phong Virginia.
Du được mọi người đề nghị làm tài xế vì là dân “địa phương” , chỗ Du ở chỉ cách LA có hơn bốn giờ bay. Ngọc được vinh hạnh làm phụ lái, tức là ngồi băng trước để làm công việc của một GPS đời mới, nhẹ nhàng êm dịu chỉ đường trong cái giọng Canadian bắc Mỹ.

Dù đã thức dậy sớm, điểm tâm và ngồi chờ giờ tốt để khởi hành, “giờ tốt” là giờ không cao điểm nhưng đường vào LA downtown lúc nào cũng tất bật ngổn ngang trăm mối.
Trên đường Du tỏ ra rất vững vàng và không làm phụ niềm tin của những người đã uỷ thác. Ngọc rất xuất sắc và dịu dàng như một cái GPS cần mẫn, một tay một bản đồ nhỏ in ra từ mapquest.com và tay kia cầm hộp xôi mà Lệ bắt phải mang theo.

Du vừa lái xe vừa tỉ mỉ chỉ lối đếm số exit trên xa lộ cho tôi. Mọi thứ ở Mỹ đều được đếm số nhưng rất tiếc mapquest lại không chỉ exit bên trái hay bên phải nên đôi khi cũng hụt hơi để cố vượt nhiều lằng đường qua bên phải để đổi xa lộ vòng cung. Nếu mapquest chịu khó thêm một ký tự đàng sau con số exit thì chắc dể cho những người đến từ xa như bọn tôi. Ở Úc những exit trên xa lộ đều không được đếm số mà được mang tên của những ngoại ô phía đó. Đất rộng dân thưa nên những lối ra trên xa lộ được qui hoạch rõ ràng hơn. Lối ra là một đường cong tẻ nghiêng bên trái với một góc độ rất dể nhận, vả lại tốc độ giới hạn có phần thấp hơn và xe thưa nên lái xe ở LA vất vã hơn ở Úc nhiều lắm.

Xe nhiều nên cũng phải mất gần hai tiếng đồng hồ mới tới được Universal Studios. Hôm đó trời mưa và không nhằm dịp nghỉ lễ của học sinh nên khỏi phải chen lấn, sắp hàng.
Dạo chơi mỗi nơi mỗi chút cũng tốn hơn cả ngày. Khi trời tối hẳn thì cả nhóm mới bắt đầu về lại Santa Ana.
Đường về, mưa rả rích đường trơn, tài xế gà gật trong những bảng nhạc vàng nuối tiếc Saigon. GPS hoạt động rời rạt hơn lúc ra đi buổi sáng. Tối thứ sáu, xe kín đặc khắp nơi, hai chiều đèn vàng và đèn đỏ chói sang cả một vùng trời.
Trên xa lộ khoảng băng qua LA downtown, lúc ngừng lúc chạy. Tài xế hối hả trám vào những chỗ trống khi xe trước vượt lên, có lúc tưởng như đâm sầm vào xe trước.
Cả bọn tuy mệt mõi nhưng xe vẫn dong duổi trên Garden Grove freeway hướng về Santa Ana.

Khi đến gần địa phận Orange County, Du vội tách ra xa lộ và khi biết mình lầm đường Du cho xe dừng và liên lạc về nhà nhờ chỉ lối. Tiếng điện thoại bên kia vồn vã chỉ cách trở lại xa lộ để tiếp tục thêm một đoạn ngắn nữa. “Nhớ cẩn thận nhé! trời tối và đường mưa” “Ui chao! chờ lâu quá, nồi cháo vịt của chị nguội hết rồi”. Tiếng người chị dâu dặn dò đừng ghé đâu hết nữa vì cả nhà đang ngồi chờ và nồi cháo vịt bắt đầu nguội lạnh.

Lần nầy xe rời xa lộ đúng exit vì đang được remote control bằng cell phone từ nhà ông anh lớn và thỉnh thoảng được relay từ hướng Fountain Valley. “Nì! tụi mi phải về đây ăn bánh bột lọc tau đương chờ!”. Du cười nhẹ nhàng, dể thôi vì xe đã qua chợ Đà lạt còn mấy phút nữa là tới nơi. Những cái bụng đói này sẽ chứa cả hai nơi cho bỏ những ngày gặm bánh mì Virginia.

Xe lăn chậm trên đường Lampson Avenue để tìm bảng đường chỉ vào con lộ nhỏ, vắng để bỏ gia đình tôi xuống trước. Hai mâm cơm, hai nơi chờ đợi nên sau phiên họp vội trên xe “…Chia nhau mà làm khách…” tôi chọn về Strathmore nơi nồi cháo vịt đang chờ.

Sự cố bắt đầu khi Du mở đèn chớp vàng hai bên như một lối báo hiệu cho người đi sau là Du đang chạy rất chậm tìm đường và cuối cùng Du quẹo trái vào Strathmore con đường tối dẫn vào nhà anh tôi.

Tôi đương mơ màng với nồi cháo vịt Cali thì bỗng nghe tiếng còi cảnh sát bên cạnh rất gần, gần như bên mang tai của mình và tiếng xe đụng. Cái hoảng hốt ban đầu không phải là tiếng hai xe va nhẹ vào nhau mà là tiếng còi và đèn cảnh sát.

Người cảnh sát già và lem nhem trong ánh sáng chập choạng, bước tới và bắt đầu hỏi chúng tôi. Những câu hỏi rất tiêu chuẩn và chi tiết. Nhẹ nhàng khi phải viết lại trên giấy nhưng được trình bầy với một lối rất là uy hiếp của một người có quyền lực. Sau nhiều năm làm việc ở Úc, tôi cũng rất quen với cái tiểu xảo này, thận trọng và lịch sự khi dùng chữ để tránh rắc rối về sau nhưng được chuyển đến người nghe bằng một lối rất uy quyền gần như “hớp hồn” thiên hạ. Dù sao thì xe đó và chiếc Van của tôi đang bị tai nạn phải trái chưa biết và cả hai đều phải được đối xử bình đẳng như nhau.

Lúc đó tôi cứ nghĩ là xe tôi bị xe cảnh sát rượt theo để thử rượu vì là tối thứ sáu và chạy “ngập ngừng” từ ngoài chợ Đà lạt. Chặp sau tôi mới biết là người cảnh sát già đó được gọi cho một “công vụ” khẩn khi lão đang mơ màng trên đường Lampson, vội chạy tiếp ứng và tống vào xe tụi tôi.
Với lối hớp hồn đó, người cảng sát già này cũng đã thành công ít nhiều để uy hiếp đối phương. Sau đó lão trở lại xe của mình và ngồi chờ đợi nhân viên công lực khác đến lâp biên bản.

Chờ hơn một tiếng đồng hồ thì có nhiều tiếng còi hụ rất nhiều nhân viên công lực, nhiều xe hơi và xe mô tô cảnh sát túa ra từ đồn cảnh sát Westminster. Tám chiếc vừa lớn vừa nhỏ với đèn xanh đỏ chớp sáng cả con đường hẹp. Tiếng máy bộ đàm, tiếng điện thoại lưu động và tiếng máy quay phim, chụp hình kỹ thuật số từ xe cảnh sát làm vang động cả một góc phố.

Cảnh tượng thật huy hoàng và hoành tráng còn hơn cảnh Hollywood hồi sáng. Có lẽ nhiều hàng xóm của anh tôi đang vén tấm màn cửa thập thò nhìn ra. Họ không thể hiểu nỗi đây chỉ là môt vụ cạ quẹt xe thông thường. Chắc chắn ngày mai anh tôi sẽ được tụi Mễ hàng xóm e dè kính nể như một ông Trùm vì đây chắc chắn là một vụ ma tuý lớn.

Tiếng máy bộ đàm liên lạc với đồn cảnh sát Westminster liên tục, rồi họ đo đạc “hiện trường”. Nhóm cảnh sát mới bắt đầu thẩm vấn lại từng người kể cả thằng nhóc tì Tíni. Họ nguyên tắc và hoà nhã trong thái độ.

“Tiên trách kỷ, hậu trách bỉ” vài người trong nhóm tôi trả lời lý do tai nạn với cảnh sát bằng cái văn hoá đó làm bụng tôi sôi lên…
Có lẽ sôi lên vì đói bụng, vì cứ nghĩ đến con vịt luột đang nằm trên bàn ăn nhà anh tôi chỉ cách nơi tôi đang bị “quản thúc” có hơn hai chục mét.
Họ chỉ hỏi có ai bị thương không, nhưng tuyệt nhiên không điếm xỉa gì đến những nhu cầu khác và họ biết chúng tôi gần hơn bốn giờ ngồi trên xe kể từ lúc rời Universal Studios. May mắn là tất cả chúng tôi đều khoẻ mạnh và không có những nhu cầu thuốc thang hàng ngày.

Tôi biết đây là đất Mỹ và họ chỉ làm mọi thứ cần thiết để bảo vệ quyền lợi của họ và chúng tôi thì vẫn còn xúng xính trong giáo điều của đức Khổng phu tử “tiên trách bỉ…” Xung đột văn hoá xảy ra ngay tại cái ngã tư nhỏ bé này!
Hơn hai giờ sau họ trao chúng tôi một dảy số dài và cho tôi về đoàn tụ với con vịt luột nằm bên kia đường chờ đợi.

Tôi biết chuyện nhức đầu này không chấm dứt ở đây mà còn nhì nhằng thêm nhiều năm tháng nửa. Tôi thầm ái ngại cho Du, người quân tử cuối cùng lạc loài trên xứ Mỹ.

Nhớ lại buổi sáng ở Universal studios vui quá, cả bọn cười ngã nghiêng trong cái thế giới mờ ảo của điện ảnh, những trận cười đem lại ký ức ngày xanh khi chúng tôi cùng chung một trường trong môt thành phố nhỏ, hơn ba mươi năm trước. Tối nay cái đèn signal nhỏ bé bị vỡ không trúng chỗ đã mang chúng tôi về thực tại và cho biết rằng chúng tôi đã lưu lạc trên nhiều mảnh đất lạ, hội nhập nhiều đời sống mới và không còn suy nghĩ đồng nhất như ngày xưa.

Ngày hôm nay vui nhưng rất tiếc là thẩm quyền Westminster đã làm nó không trọn vẹn. Ngày mai tôi sẽ một mình ra phố Bolsa tìm môt ly cà phê nóng.

Little Saigon. December 2005

Chợ Bolsa không phải là môt thành phố mỹ miều trên đất Mỹ như nhiều người ở xa vẫn hy vọng nhưng tất cả người Việt tản mát bốn phương khi đến LA đều một lần ghé qua chốn này.
Bolsa là khu phố chợ của thế hệ người Việt đầu tiên của những ngày đầu mất nước. Người tị nạn năm đó xây dựng Bolsa theo cái ký ức mà họ đã gánh theo trên đường vượt biển. Từ đó họ vẫn tô điểm cho nó trong cái kiểu cách này cho đến ngày nay và có lẻ mãi cho đến ngày họ trả lại tấm thẻ tạm dung để xuôi tay về với đất.

Phố Bolsa bây giờ rộn ràng đông đúc. Hơn ba mươi năm trôi qua Bolsa vẫn là điểm tụ của những mảnh đời lưu lạc, những tâm hồn xơ xác trên biển đông. Ở điểm tụ nầy, những người lưu lạc cô đơn thỉnh thoảng tình cờ ngỡ ngàng gặp nhau sau một cuộc đời dâu bể.

Chiều nay tôi lê chân qua Bolsa rộn ràng
tình cờ trong quán vắng, em ngỡ ngàng nhìn tôi…

Tôi cũng ra Bolsa để uống một ly cà phê đen, ngồi nhìn những dòng đời trôi nổi, ngồi nhấm những giọt đắng giọt sầu. Biết đâu tình cờ gặp lại cố nhân trong quán vắng, người xưa của những chiều Duy tân, những ngày giảng đường, những hụt hẫng chia cách của chiều tháng tư. Nhưng tôi không có diễm phúc đau thương như người thi sĩ tài hoa này, chẳng có ai “ngỡ ngàng nhìn tôi”. Với tôi Bolsa trống vắng và vô tình. Bolsa lạnh lùng và xa cách.

Chiều nay tôi qua đây, Bolsa tới muộn màng
tình cờ thôi đã lỡ, là tiển người sang ngang…

Trong quán đèn mờ cà phê Dĩ vãng bên kia đường, tiếng Chế Linh nức nỡ Bolsa chiều hai lối.
Ngoài kia Bolsa đời muôn vạn lối. Bolsa tình muôn vạn nẻo. Tấp nập người bán kẻ mua. Đèn sáng, đèn mờ giăng giăng đô thị, phố phường nhạt nhoà hương phấn. Nhưng trong cái chiều sâu thẳm, Bolsa vẫn chứa đựng những sự cô đơn trống vắng với cái ngỡ ngàng bể dâu, những trôi dạt xa cách, những tình cờ gặp gỡ, những tiếng dương cầm muộn màng nuối tiếc để chôn cất một cuộc tình đài trang.

Bolsa là những giọt nước mắt của những ngày bàng hoàng mất nhau, những ngày đầu bơ vơ đất khách. Là những giọt lệ cay nồng của những bẽ bàng tái ngộ. Là những thở than trong định mệnh khắc nghiệt. Là những thúc thủ với thân phận khi nhìn lại mái tóc đã tuyết sương. Bolsa muôn vạn lối, muôn vạn mảnh đời…
…Bolsa giờ hai lối, về đâu hởi về đâu … Tiếng hát vẫn vang vọng. Thẩn thờ với những hoài niệm xa xưa, bóng người cũ vẫn chìm khuất trong ký ức. Với tôi Bolsa giờ không lối.
Và ngày mai tôi sẽ ra phi trường John Wayne, giã từ Bolsa.

Toronto. December 2005

Tuyết rơi mênh mông! trắng xóa cả vùng Bắc Mỹ,từ đông sang tây, không giống như tuyết ở Úc, tuyết Bắc Mỹ nhẹ như bột và bông tuyết rơi nhè nhẹ xuống những đọt thông và những căn nhà có những kiến trúc rất đặc biệt mà ở Úc không có, thơ mộng mùa đông Bắc Mỹ.

Nhìn ra cửa sổ phi trường JFK tuyết rơi ngập lối, những chiếc Boeing như đang được tẩm bột trắng xoá. Ngần ngại nhưng rồi chúng tôi vẫn phải check in, boarding và rồi flight cancel vì tin CNN cho biết có phi cơ đã trượt khỏi phi đạo vì đường bay đóng băng.

Dù biết rằng đoạn đường ngắn này sẽ là một một hành trình rất dài và không dể nuốt nhưng tôi vẫn muốn đi. Đình, người bạn cũ, đã từ Toronto lái xe qua biên giới và đang ngồi trong bão tuyết chờ tôi ở Buffalo.

“Cái thằng khỉ đột!” Tôi lẩm bẩm chưởi thầm trong miệng. Tối hôm qua khi còn đang ở Times Square NY, đêm rất trong và yên tỉnh, nhưng người ta đã tiên đoán là sẽ có bão tuyết lớn toàn vùng bao kín cả Ngũ đại hồ xuống tận Denver. Tôi có điện thoại cho nó là đừng dậy sớm đội tuyết băng biên giới làm gì! chờ tôi đến Buffalo rồi hẳn hay nhưng nó vẫn cứ khăng khăng “mầy để tao lo…”

Phi trường JFK hôm đó bận rộn không thể tả được. Nhân viên hàng không làm việc túi bụi cố tổ chức lại những chuyến bay mới để giãn bớt đám hành khách khổng lồ nằm ngồi kín cả phòng đợi.

Chỉ trong vòng hơn hai tiếng đồng hồ mà chúng tôi có hơn ba bốn thẻ lên tàu “Anh về Boston nhé! ở đó chỉ chờ hơn nửa giờ sau là có chuyến kế tiếp bay ngược về Buffalo, hy vọng bạn anh vẫn còn đó”. Một chặp sau tôi lại có thẻ boarding đi Chicago và vài nơi khác nữa. Họ tiếp tục tái phân phối chuyến bay, chuẩn bị đưa hành khách lên tàu và rồi liên tục huỷ vào giờ chót vì thời tiết.

Tôi kiên nhẩn giải thích với cô tiếp viên hành không là đừng nhắm mắt nghe theo cái máy vi tính mà gởi chúng tôi đi theo cơn bão, thà nằm chờ ở JFK còn hơn nằm chờ ở một nơi xa hơn.

Cuối cùng tôi chọn đi Washington DC để tìm cách quay về Buffalo trước khi trời tối. Lướt qua hàng máy vi tính, tôi thấy phi trường này có số chuyến bay ra ít bị huỷ nhất, như vậy tức là bị ảnh hưởng nhẹ và có nhiều hy vọng để tiếp tục đi Buffalo dù rằng phải chờ ở phi trường lâu hơn những nơi khác. Cô tiếp viên nhoẻn miệng cười duyên và đồng ý. Thế là gia đình tôi đến thủ đô Hoa thịnh đốn như những người khách bất đắc dĩ.

Tôi cố liên lạc với Đình nhưng đường dây không nối. Tôi bắt đầu hoang mang và sợ Đình bị kẹt vì bão tuyết dọc đường trong vùng không phủ sóng điện thoại. Ngọc đã trở lại làm việc sau chuyến đi LA tuần trước và tôi nhờ Ngọc liên lạc dùm trong lúc tôi ngồi trong máy bay, không biết là sẽ bao lâu, nhưng chắc cũng mất cả buổi chiều.

Xuống Dulles Internatinal Airport tôi được biết là phải chờ hơn ba tiếng đồng hồ nữa mới có chuyến đi ngược về Buffalo và Ngọc cũng gọi tôi cho biết là không liên lạc được với Đình. Đành chịu thôi! Ngọc an ủi “Sáng nay ở Toronto bão tuyết không nặng lắm…”

Ngồi chờ ở phi trường một chặp cũng chán và tôi đề nghị kêu taxi ra phố chơi cho biết thủ đô. Người bán hàng ngồi cạnh khuyên là nên đi bằng xe lửa vì hôm nay tuyết lớn, kẹt xe là trể chuyến bay.

Thế là cả ba mua vé khứ hồi xuống ga South Capitol rồi lội bộ lòng vòng quanh thư viện, Capitol Building. Sau trận khủng bố mười một tháng chín, nhà nước Mỹ phòng thủ kỷ càng, những tấm thép chắn dựng lên khắp nơi nhưng du khách cũng còn nhiều tự do đi lại.
Chụp hình quay phim bên những gốc anh đào trơ trụi mùa đông với những chú sóc dạn dĩ ngước đôi mắt tròn xoe nhìn du khách. Đôn muốn đi qua phố Tàu mua vài chén cháo nóng như hôm trước ở New York nhưng tôi sợ trễ nên vôi vã quay về phi trường chờ chuyến bay kế tiếp.

Ngồi trên chuyến bay ngược về Buffalo tôi mơ màng nhớ lại chuyện cũ. Tôi và Đình biết nhau lâu lắm rồi. Năm đó tôi từ trường Lasan qua Cường để học lại “chứng chỉ hai của đệ thất niên bậc trung học”. Đình và tôi học chung một lớp duy nhất còn theo dạy văn chương “kết xờ cờ xe?” Những lớp khác đều theo học Anh văn cho kịp đà tiến hoá nhân loại. Tôi chỉ học ở đó vỏn vẹn hai năm rồi chia tay. Thời gian học chung rất ngắn nhưng tôi và hắn cùng sinh hoạt chung Hướng đạo nên cũng rất thân. Tôi vào Hướng đạo trể hơn nên sinh hoạt ở Kha đoàn Đồ bàn và Đình trẻ hơn nên vẫn còn lần lữa trong Thiếu đoàn Đống đa. Năm vào đại học thì tôi và Đình ít có dịp gặp nhau vì không học cùng phân khoa, thỉnh thoảng chỉ gặp nhau trong dịp về Qui nhơn ăn tết.

Lúc tôi đang học lại năm thứ nhất ở Melbourne thì nhận được thư Đình gởi từ trại tị nạn Hồng kong. Từ đó tôi dời địa chỉ nhiều lần và có lúc đi làm rất xa nên mất hẳn liên lạc.

Cho đến một buổi trưa hè năm ngoái, lúc tôi đang ngũ gục trên bàn phiếm máy vi tính thì hắn đến “Khoẻ không?” Tôi không trả lời mà hỏi lại “Mấy giờ rồi?” Hắn nói khoảng một giờ khuya, ngoài trời đang tuyết lớn. Cứ như vậy đó, hắn đến bất ngờ và hắn đi cũng nhanh. Thăng giáng bất thường vì phải bận chạy taxi lòng vòng Toronto downtown. “Taxi?” hắn giải thích là chở đám con đi công chuyện hàng ngày cho trọn đạo phụ tử.

Cứ vui chơi đồng bóng như vậy cho đến ngày hôm nay tôi hẹn gặp nó ở phố tuyết này.

Đến Buffalo thì trời đã tối, mệt mỏi cho một ngày dài. Hàng quán ở phi trường cũng đang lục tục đóng cửa chỉ trừ vài tiệm cà phê. XB, Đôn và tôi vội vã đi nhận hành lý trước khi nghĩ đến chổ trọ cho tối nay. Chờ đến vòng quay lần thứ năm, chúng tôi mới bỏ cuộc và nhận ra rằng tất cả hành lý đã không theo cùng chuyến bay và chúng tôi chỉ bận đồ nhẹ để khỏi phải bị khám xét lôi thôi vì ra vào phi trường nhiều lần để đổi vé.

Trở lại văn phòng USAir để khiếu nại, người nhân viên cho biết hành lý của chúng tôi có lẽ lạc đâu đó ở phi trường Boston. Khi điền đơn hành lý thất lạc, tôi bối rối và bỏ trống phần địa chỉ để hãng mày bay liên lạc tối nay. Mệt mỏi vì một ngày dài, tôi ngước nhìn ra bãi đậu xe ngoài xa, tuyết vẫn rơi đều dưới ánh đèn vàng vọt. Đôn bật cười khi nghe tôi ngâm nga một câu nhạc mới mà tôi đã học được của Chế Linh ngoài chợ Bolsa hôm trước “…Buffalo giờ vô lối, về đâu hỡi về đâu!!!”
Về đâu? Cuối cùng thì chúng tôi cũng được một chốn để đi về và để ngã lưng xuống chiếc giường êm ái bên lò sưởi ấm. Tiếng điện thoại lại kêu vang và Đình cũng vừa về lại nhà sau môt ngày lái xe trong bão. “Chờ đó, tao qua”, cơn buồn ngủ kéo trì đôi mắt, tôi dối rằng USAir hẹn ngày mai đến lấy lại hành lý bên nầy và chúc nó ngủ ngon, đừng mộng mị chuyện năm xưa.

Sáng thức dậy sớm không biết làm gì nên tôi rủ Đôn đi chụp hình quanh khách sạn. Đang lui hui chụp những cành cây khẳng khiu bám tuyết thì chợt nghe tiếng Bình định ở rất xa bên kia đường “Ê Bình! Đứng đó chờ tao quẹo qua”, “Ừ! tao chờ”.
Tao vẫn muốn đứng đây chờ mầy quẹo từ hơn ba mươi năm rồi, chờ thêm một chút nữa không sao. Cái thằng “khỉ đột” nầy mắt còn tốt quá, nhìn vẫn còn rõ từ xa và xổ ra mấy câu hiệu lệnh như lúc chúng tôi sắp hàng tập họp hướng đạo năm xưa. Hình ảnh bạn bè lúc nào cũng ở trong trí nên chẳng có chuyện mầu mè cho cuộc tái ngộ.

Rồi cả bọn vượt biên vào Canada, trạm dừng đầu tiên là thành phố Niagara bờ phía bắc. Thác nước mùa đông nầy thật tuyệt vời, đẹp hơn trong trí tưởng tượng của tôi rất nhiều. Dòng sông Niagara cuồn cuộn đổ vào những thác nước và tạo ra những âm thanh ầm ầm vang động từ xa. Thành phố bên bờ Canada lịch lãm, nhiều khách sạn, quán ăn kiến trúc thẩm mỹ. Bên nầy khách du lịch có thể nhìn trọn vẹn hai thác nước American Falls và Horseshoe Falls. Nhàn nhã lội phố vì hôm nay bão đã qua và xa lộ đã trở về tốc độ bình thường. Chúng tôi vào quán ăn trưa và cảnh trí ấm cúng, âm nhạc êm dịu đã kéo chúng tôi ngồi ở đó khá lâu, nhởn nhơ đù đưa với thời gian và khi chúng tôi bước ra cái quả lắc của chiếc đồng hồ treo tường đang gõ đều hai tiếng.

Nhà Đình ở trong châu thành Toronto giống như Richmond ở Úc. X Bửu đóng tiếp gia đình bạn của chồng rất từ tốn, thân mật và tỏ ra thất vọng khi nghe chúng tôi cho biết là không thể đi dự tiệc Giáng sinh như đã dự định trước. Hôm qua vì bão mất một ngày nên chương trình ở Toronto được cắt xén bớt cho phù hợp.

“Tái phối trí!” và như vậy là XB đi về hướng Woodbridge để uống rượu Icewine và ăn tối với Ngọc, Đôn đi trượt Toboggan với Kelvin và Andrew. Còn tôi thì sẽ đi dự dạ tiệc Giáng sinh như đã hẹn trước.

Hành lý cũng chưa theo qua bên này như lời hứa ởm ờ của USAir nhưng Ngọc có mang đến một xách lớn quần áo mùa đông và tôi theo X Bửu qua nhà hàng xóm mượn bộ đồ vía để đi dự dạ tiệc. Khi bước ra khỏi nhà thì tôi cũng tươm tất như những người khác, giầy da đắt tiền, áo sơ mi trắng, cà vạt lụa Ý, áo khoác lịch lãm được cắt may ở những cửa hiệu lớn, đầu chải mướt có xịt keo cẩn thận.

Tôi bước vào xe để đi dự dạ hội mà lòng cũng thầm tiếc ly rượu Icewine bên Woodbridge. Rượu này cũng rất cầu kỳ như lối làm Trinh nữ trà hoặc Trảm mã trà bên Trung quốc. Rượu Icewine là một đặc sản của vùng Ontario – Niagara. Nó có nguồn gốc tận bên Đức từ lâu lắm rồi nhưng chỉ mới được bầy bán ngoài chợ khoảng ba chục năm nay, nói chính xác là từ năm bảy tám của nhà vườn Hainle Vineyards. Nho chín cuối mùa được người chủ vườn “bỏ quên” trên cây và bị đông lạnh ngay đợt gió lạnh mùa đông từ bắc cực thổi về. Nho được những cô đầm hái từ lúc tờ mờ sáng khi nhiệt độ vẫn còn đâu đó dưới tám độ âm. Nho đông cứng như những viên bi và khi được ép để làm rượu thì nước bị tách ra và chỉ còn nguyên chất mật ngọt của nho để lên men rượu. Tôi không “sính” chữ Tây nên chẳng muốn gọi nó là Icewine hay Eiswein theo lối Đức. Tôi tạm cho nó cái tên mới là “Băng giá tửu”, ngẫm nghĩ cho cùng thì cái tên này không chính xác vì nó chẳng gợi được mùi rượu cay nồng trên đôi môi trong hình ảnh của đôi bạn cố tri đối ẩm bên lò sưởi ấm giữa mùa đông Bắc Mỹ.

Ngày hôm sau Đình đưa chúng tôi đi lòng vòng khắp nơi, ăn phở Việt nam, ăn tối nhà hàng Tàu. Đây là lần đầu tiên Đôn được ice skating ở giữa Toronto City Square, hôm đó tuyết rơi nhè nhẹ và không lạnh lắm. Trong lúc Đôn và Kelvin lã lướt với đám người trẻ, tôi và XB ngồi ở quán cà phê Starbucks nhìn cảnh tuyết mùa đông của Toronto downtown.

Ba ngày trôi qua rất nhanh, thấy vậy mà cũng mà cũng đến lúc chia tay từ giã, chuyến đi nấy dù đã chia nhiều người, ở nhiều nơi khác nhau nhưng lần nầy vẫn bịn rịn, không biết sáng nay sẽ nói sao với Đình. Hẹn gặp lại lần tới, ba mươi năm sau? Thời gian ở Toronto thật vui, lần đầu tiên tôi sống trên thành phố tuyết với người bạn cũ, nhìn tuyết rơi nhè nhẹ sau hiên nhà, đẹp quá tuyết đầu mùa, trời không lạnh lắm và thỉnh thoảng có vài cơn gió nhẹ đủ làm tê tái cho lời giả từ.

Hy vọng lần tới tôi sẽ ở Toronto nhiều ngày hơn và đến vào mùa thu cho biết cái rực rỡ của rừng phong lá đỏ. Lần này thì chỉ thấy cái lặng lẽ của những công viên dọc theo bờ hồ Ontario, lặng lẽ nhưng vẫn có nét đẹp kiêu sa của một thành phố mẫu mực nhất nhì thế giới.

Chỉ còn vài giờ nữa là phải trở lại phi trường để bay trở về New York. Hy vọng sẽ không có bão tuyết và lạc hành lý như chuyến trước, nhưng dù sao nó cũng có những cái hay để mình thầm cám ơn những tình bạn đậm đà không hề bị thời gian, không gian xoá mờ.
“Toronto. Thôi thì thôi nhé! có ngần ấy thôi…”
Tạm biệt Canada, tạm biệt những cành phong tuyết phủ.

Colorado. December 2005

Cả ba chúng tôi trở lại phi trường Phoenix lần thứ hai như một đoàn quân chiến bại “tả tơi hoa lá” lê lết kéo hành lý chờ chuyến bay về Denver. Tối hôm trước đó không ngũ được vì sợ trể chuyến bay. Chuyến bay đi Phoenix từ phi trường JFK bắt đầu từ lúc bốn giờ sáng. Mọi khi thì tôi cũng nhờ vào cái cell phone để đánh thức nhưng sáng nay thì không vì nó đã hết xí quách như tôi. Hôm trước cũng nhờ bà chủ khách sạn “wake up call” nhưng đến giờ ra phi trường thì bà chủ nầy vẫn mơ màng trong giấc mộng nam kha. Thật ra đối với ông bà chủ người Việt nam này, đây không phải là một giấc mộng mà là một sự thật. Vợ chồng người tị nạn này làm chủ một khách sạn 700 phòng ở ngay trung tâm chính của New York. Ở ngay tại Times Square không chệt đi một li nào hết. Lần trước khi checkin sau chuyến bay đêm từ Las Vegas tới bà chủ tiếp tôi bằng tiếng Anh rất nặng và sau đó đổi qua tiếng Việt, một thứ giọng không thay đổi gì hết sau hơn ba chục năm ngồi ngự ở cái trung tâm tài lực này. Bà chủ gọi tôi bằng “ông” và đối xử rất lạnh lùng của Newyorker. Tôi không quen với lối tiếp đón ấy và thầm nhũ lần này gặp lại bà chủ là tôi sẽ “nổ”.

Ngạc nhiên đến há hốc khi lần nầy mới bước vào đã được nghe chào “anh Bình mới về!” Sau đó bà chủ tâm sự là gia đình đến NY tháng tư năm bảy lăm và đến tháng tám thì trả hết nợ ngân hàng. Khách sạn này ở địa điểm độc đáo nhất nước Mỹ nhưng bên trong lôi thôi lắm. Khi Đôn bị rệp chích đỏ cả người, tôi gợi ý cải thiện thêm thì bà chủ gạt phăng “Không cần phải mầu mè chi nữa! Nhìn qua bên cạnh kìa! phòng nhỏ nhưng giá gấp đôi…rẽ mạt cũng phải ba trăm đồng một đêm”. Quả thật là đất tiền đất bạc!

Denver, Denver…thủ phủ của Colorado. “Thất vọng” đoạn đường từ phi trường về khách sạn chẳng có gì đặc biệt, ngoại trừ phi trường Denver rất mới và hiện đại. Red Lion Hotel rất tốt nhưng toạ lạc trên vùng đất kỹ nghệ bê bối. Buồn tình tôi rũ Đôn bước ra những đường xe lửa bỏ hoang đóng phim cao bồi nhưng nó từ chối vì lạnh quá.

Ba ngày nằm ở Denver chỉ để chờ gia đình người anh từ Wichita qua. Cả ba chẳng biết làm gì ngoại trừ việc băng bộ qua Walmart mua bò khô beef jerky về gặm. Thỉnh thoảng theo xe shuttle bus của khách sạn xuống phố. Ngày hôm qua đi xe bus qua Aurora để mua quà giáng sinh nên mới có dịp biết thêm về Denver. Thật ra thành phố nầy cũng có nhiều ngoại ô rất đẹp.

Sáng sớm nay tôi liên lạc về Wichita và được biết cả nhóm đã rời nhà lúc 4 giờ sáng. Xe chạy rất chậm nên chẳng biết lúc nào sẽ đến Denver. Đường trơn trợt vì tuyết đổ nặng, nhiều xe bị trượt khỏi xa lộ. Xe chỉ chạy được 30 miles/hr. Gia đình anh tôi đến Denver sau 11 giờ lái xe thay vì 7-8 như trong chỉ dẩn của mapquest.
Sáng chúa nhật hôm sau cả nhà quyết định đi về hướng tây của đường 70 tức là lên Colorado Rocky Mountains.

Hôm trước lúc ăn tối ở LA tôi được mấy đứa cháu “briefing” rất kỹ về Colorado. Tụi cháu biết vùng này rất rõ vì đã từng sống ở Denver nhiều năm. Đám cháu rất lịch sự theo kiểu ăng lê nhẹ nhàng khuyên tôi không nên lái xe đi Vail hoặc Aspen giửa mùa tuyết lớn. “Chú Bình nên đi bằng snowtrain đến Winter Park chơi, ở đó vui lắm”. Winter Park là Gateway to the Rockies. Tối hôm ở khách sạn, Thuỷ một người bạn cũ thời trung học của XB nay định cư ở Denver cũng khuyên là nên đi trượt tuyết ở Keystone “Vui lắm”.

Cả Keystone, Winter Park và Vail cùng nằm trên một cao độ khoảng tám, chín ngàn bộ nhưng nếu đi Vail hoặc Aspen du khách phải lái xe qua đoạn đường băng giá nhất của highway 70 là hầm Eisenhower ở cao độ hơn mười một ngàn bộ.
Tôi thầm cám ơn tất cả, nhưng tôi vẫn muốn đi Vail.

Hôm nay thì tôi phải làm tài xế vì so với cánh Wichita, tôi là dân địa phương vì đã đóng chốt gặm beef jerky ở đây hơn ba ngày rồi, hơn nữa tôi vẫn thường chạy xe đi trượt tuyết hàng năm ở Úc..

Khi xe ra khỏi Denver thì dãy núi Rockies sừng sững trước mặt. Tuyết bắt đầu rơi nặng hơn và nhiệt độ hạ xuống khoảng 11 độ F. Đường vẫn còn sạch không bị trơn trợt nên vẫn chạy ở tốc độ ấn định là 75 dặm một giờ.

Quả thật là rất xứng đáng với những lời ca tụng về những dảy núi nầy, phong cảnh tuyệt đẹp, vách đá cao ngất, tuyết phủ dầy. Đôn muốn dừng xe khi thoáng thấy bên kia đường có một nhóm người đang “ice fishing” trên mặt hồ đang đóng băng. Không thể qua được vì xa lộ hai lối riêng biệt nên tôi hẹn Đôn vòng về sẽ ghé.

Càng lên cao đường càng khó chạy vì thời tiết xấu hơn. Có nhiều xe nằm chơ vơ chổng bánh lên trời hoặc đâm vào vách núi. Chỉ một đoạn ngắn thôi mà đã đếm được hơn mười xe “bỏ cuộc chơi”. Đôn vẫn muốn đi Vail nên cố giải thích “Thấy không! drivers của những xe đó toàn là đám đầu xững đang ở tuổi teens, xe mình cứ cẩn thận là an toàn xa lộ”

Khi xe vượt qua cái hầm đầu tiên cả bọn reo vui vì cứ tưởng là đã vượt qua được Eisenhower tunnel, điểm cao nhất của xa lộ 70. Nhưng “bé cái lầm” đường còn xa và xe phải chạy rất chậm, chỉ còn 25 dặm một giờ và đi theo snowtrack chứ không còn ba lằng đường như qui định. Những xe đi sau rất lịch sự và kiên nhẩn có lẻ họ cũng biết đoạn nầy cũng không dể nuốt vì thời tiết bất thường năm nay.
Càng lên cao núi càng đẹp, cả xe reo vui khi nhìn thấy bầy dê rừng đang đứng chênh vênh bên vách núi nhìn du khách. Tuyết rơi mịn màng trên những ngọn thông.

Rốt cuộc rồi cũng đến Vail sau hơn bốn giờ vất vả trên đường trơn trợt ngập tuyết. Vail là phố núi nhỏ và rất đẹp, kiến trúc thẩm mỹ của khu trượt tuyết sang trọng – Tuyệt mỹ như một cái nôi trắng ngần đang đong đưa trên mây ở cao độ hơn tám ngàn bộ. Từ phố nhỏ này người trượt tuyết còn phải đi chairlift thêm hơn ba ngàn rưởi bộ nữa để nóc nhà trời summit.

Trời ấm và không gió, tuyết rơi từng bông lớn và rơi rất nhẹ. Giữa phố có một dòng suối trong vắt chảy qua. XB và chị Thuỷ ngồi lỳ trong quán cà phê Starbucks nhìn dòng đời đu đưa trên cái nóc của dãy Rockies hùng vĩ nầy.

Cả nhóm trẻ Đôn, Bích Thuỷ, Bích Hà và Mỹ Ý đều mưốn trượt tuyết, trời đã xế chiều nhưng cũng phải mua vé nguyên ngày nên cuối cùng chỉ có Đôn có cái vinh hạnh được lên Summit để rồi trượt theo những con đường tuyết ngoằn ngèo quanh những rừng thông xuống lại phố Vail.
Mùa đông mặt trời lặn nhanh nên cả bọn phải vội vã xuống núi sớm và giã từ Colorado Rocky Mountains.

Wichita – Điểm hẹn cuối.

Sáng sớm thứ hai cả bọn ra phi trường Denver để tiễn Mỹ Ý về San Jose rồi sau đó trực chỉ về Wichita “Điểm hẹn cuối cùng”. Hôm qua lúc ra phố đi đổ xăng và nói chuyện bâng quơ với người bán hàng thì hắn một chút nghiêm túc, một chút khôi hài chỉ về hướng mặt trời lặn trên đường 70 và nói “Ra khỏi Denver, cứ một đường mà chạy. Đếm khoảng mười nóc nhà là tới nơi”. Tôi cười cám ơn và bỏ đi.

Sáng nay khi ra khỏi Denver thì xe thưa dần và chỉ thấy những đồng tuyết mênh mông. Tuyết không ngập quá đầu gối như ở Buffalo nhưng trãi rộng ngút ngàn trên những cánh đồng hoang vắng. Những chổ tuyết rơi mỏng gợi cho tôi những cánh đồng tuyết ở Cooma của Úc. Những nơi khác thì cảnh quá giống như trong phim Doctor Zhivago, những đoàn xe lửa thật dài nằm im trong tuyết bên kia đồi giống như cảnh khi gia đình Zhivago rời bỏ Moscova về quê.

“Khoảng mười cái nhà?” tôi thầm nghĩ chắc người bán hàng muốn chọc quê xứ Wichita của anh tôi. Xe vẫn chạy đều và tuyết vẫn mênh mông trên những cánh đồng lúa mì trơ trọi giữa mùa đông. Cứ năm bảy chục dặm thì gặp một cái barn hoặc vựa lúa. Đi gần hết nửa ngày mà chỉ đếm được năm bẩy ngôi nhà.
Thỉnh thoảng xe lên dốc thì có cảm giác như đang bay trên mây vì ngước lên chung quanh toàn là một màu sữa đục. Tuyết trắng, mây trắng, sương mù trắng đục như những lọn bông gòn chờn vờn trong gió nhẹ. Mặt đường khô ráo và rất tốt nên tôi vặn tốc độ tự động bảy mươi sáu dặm một giờ, xe chạy rất êm ái tưởng chừng như lướt trong mây.

Xe đến Wichita lúc trời đã tối hẳn và một điều rất ngạc nhiên là cái hẻm vắng Laura Court lại là đoạn đường khó bước nhất vì mặt đường đóng băng rất dầy. Nhớ đến cái “sự cố Westminster” hôm trước, lần này chúng tôi thật cẩn thận.
Ấn tượng đầu tiên về Wichita là ngôi nhà nhỏ của anh chị tôi, sân trước sân sau chìm trong biển tuyết.

Yuki Guni. December 2005

Thức dậy sớm như thường lệ nên chẳng biết làm gì vì cả nhà còn ngũ. Ngoài đường lạnh quá dù rằng từ chiều hôm qua trời đã “ấm” dần. Nhiệt độ nhích lên gần đến 0 độ C và cái con hẻm Laura Court bắt đầu mềm ra. Lớp nước đá trên mặt đường có vẻ nhão ra và dể đi hơn. Tối đến khi nhiệt độ hạ thấp thì lại đóng băng và có lẽ cứ như thế cho hết mùa đông.

Xóm nhỏ của con hẻm vắng nầy chỉ có mấy gia đình trong đó có gia đình anh tôi và hai gia đình người Việt trẻ đi làm cho hảng Boeing, phần còn lại là người địa phương, nhịp sống có phần chậm nhưng hiền hoà hơn ở phố lớn.

Chiều hôm qua cả bọn ghé qua trường học của mấy cháu. Ngạc nhiên vì trường đại học Wichita lớn hơn trong trí tôi nhiều lắm. Trường mẫu mực, bề thế và lặng lẽ trong dịp nghĩ mùa đông. Tôi muốn dừng lại và chụp một bức hình Đôn ngồi một mình trên hàng ghế dài đầy tuyết phủ của cái stadium chính của trường nhưng không tìm ra lối vào nên thôi.

Tối ở Wichita lặng lẽ. Hôm trước ở Toronto gặp dịp trăng tròn nhưng lại không có thì giờ để ngắm. Bây giờ ngồi đây nhìn ra cửa sổ, trăng đã khuyết, ánh trăng thượng tuần phản chiếu trên sân rộng phủ tuyết toả ra một ánh sáng rất dịu. Trăng xứ lạnh không giống như những đêm trăng nhiệt đới, không giống như những đêm trăng ở Melbourne với những tiếng động lạ ban đêm. Đêm trăng ở đây toả ra một thứ ánh sáng mờ mờ và yên lặng tuyệt đối. Chắc chắn là sẽ có những con chim đi ăn tối trong tuyết nhưng nó sẽ không ồn ào tiếng chim lạ như mảnh vườn sau của nhà tôi ở Melbourne trong những ngày trăng khuyết.

Yên lặng, không gian và thời gian ngưng đọng chứ không như những ngày ở New York. Dòng người xô đẩy ở Times Square, chao ôi người đâu mà đông thế! đủ mọi khuôn mặt, người địa phương, khách nhàn du tên thế giới đổ về. Cô bán hàng trẻ người Hàn quốc cho biết là những hôm bận rộn du khách chẳng cần phải đi, làn sóng người sẽ cuốn mình đi từ Times Square xuống Central Park, rồi qua Madison Square.

Ở NY con người như một cái máy robot dể ghét với những khuôn mặt mặt lạnh lùng, thỉnh thoảng nhăn nhó khó chịu. Chẳng bao giờ họ có thì giờ để chỉ đường giúp một người đi lạc hay mua dùm một cái vé xe cho ai. Người phục vụ thì lạnh lùng đứng chờ tiền tip nhưng sẽ không trả lời nhưng câu hỏi ngâp ngừng của du khách.

Những ngày ở New York tôi chỉ ngưỡng mộ hai loại người ngoài phố đó là mấy “Bro” Mỹ đen bận mấy cái quần jean lòng thòng và mấy trự Việt nam trẻ đứng bán hàng rong trên hè phố. Hai nhóm người nầy có một “sức bật” rất kỳ diệu chống lại mọi phong ba bão táp trong cái máy nghiền vĩ đại ở NY. Có người cho rằng họ sống lơ lững bên lề cuộc đời, nhưng tôi không cho rằng họ sống “bên lề” mà là sống “trên” cái cõi xô bồ đó. Nhỡn nhơ như những con vàng trong chậu nước mặn.

Central Park “sang” vì ở ngay phố, bên cạnh những toà nhà đắt tiền nhất thế kỷ nhưng theo ý của tôi thì nơi này không đẹp hơn vườn Botanical Garden ở Melbourne. Có thể nó vui hơn nhưng chắc chắn là không thể đẹp hơn. Ngạc nhiên vì có quá nhiều đường xe chạy xuyên qua công viên nhưng bù lại thì dịch vụ xe ngựa rất nhiều. Chắc là mùa xuân vườn sẽ xanh mướt với nhiều kỳ hoa dị thảo, nhất là hoa tulip và sẽ dập dìu tài tử giai nhân.

Phố Tàu ở NY quả là một kinh nghiệm quí giá của chuyến đi. Nơi nầy thì chỉ có người Tàu và họ ồn ào không thể tả được. Buôn bán thì cũng giống như ở Bangkok. Sau một hồi mặc cả thì giá của một chiếc nhẫn được đổi từ năm trăm đồng xuống còn hai trăm vì cô bán hàng có cảm tình đặc biệt với du khách! Nếu du khách đổi ý không muốn mua thì cũng không nên nấn ná trong cửa tiệm lâu quá. Đa số người làm công cho quán ăn hay tiệm chạp phô đều không nói được tiếng Anh, thật ra họ cũng có nói nhưng rất ít. Chắc họ là những người mới đến và đang tìm một cơ hội cho cuộc đời. Xin thành thật chúc họ đạt được giấc mơ như vợ chồng bà chủ khách sạn.

Thấy vậy mà XB và Đôn lại “kết” với khu phố này. Đồ ăn nóng và rẽ hơn trong tiệm fast foods rất nhiều, gần như nữa giá. Một ly súp nóng mua của mấy “bro” ngoài lề đường gần bốn đồng nhưng một tô cháo lớn nóng hổi, rất hấp dẩn khi bên ngoài chỉ có 8 độ F, giá hời chỉ khoảng hơn hai đồng mà thôi.

Như vậy là XB và Đôn lại lấy subway đi đến Canal Station để qua phố Tàu ăn cháo khuya. Cháo khuya trong đêm lạnh rất hấp dẩn nhưng phải băng qua cái Ga xe điện ngầm Canal Station trong đêm tối là một chuyện khó tưởng tượng. Ga vắng tanh, không có nhân viên trực hay an ninh trông nôm, chỉ có mình và những cặp mắt trắng dã to tròn của mấy trự Mỹ đen bụi đời nhìn trừng trừng như những phim về Harlem.
Thấy vậy mà cũng xong cái phần NY và cũng chẳng mất mát gì dù rằng thỉnh thoảng cũng đổ mồ hôi để cho thấy kinh thành hoa lệ Nữu ước cũng không lạnh lắm.

Chuyện Nữu ước phải tạm dừng ở đây để sửa soạn cho một ngày mới. Ngày hôm nay sẽ mất hơn bảy giờ lái xe cho hai vòng đi và về. Cả gia đình sẽ qua một tiểu bang mới Missouri để xem …tuyết.
Ở đây có gì ngoài tuyết?

Missouri December 2005

Không như những con chim trời xuôi nam trốn tuyết, hôm nay cả nhà lại nhảy lên xe lái về hướng bắc. Phố buồn Wichita trông thật lạ mắt. Sáng sớm trời sương mù hứa hẹn cho môt buổi trưa nắng ấm và trời xanh. Nhưng bây giờ trời vẫn còn lạnh, không gió và nhìn những nhánh cây ven đường thì thật là tuyệt diệu. Tuyết mong manh phũ kín những cành cây trắng xoá như một người thợ làm bánh khéo tay, rãi bột trắng rất đều trên mọi vạn vật. Ở Niagara cũng vậy nhưng nó không mong manh như ở đây. Ở đó tuyết phũ vào những cành phong một cách mạnh bạo, toả ra một sức mạnh của mùa đông bắc Mỹ.

Xa lộ 35 nầy càng theo hướng bắc thì tuyết càng mỏng lần rồi thì trải ra những cánh đồng lúa mì mùa đông chỉ còn trơ những gốc rạ màu cỏ úa. Phong cảnh giống như cuối Thu hơn là giữa đông. Cứ như những ngày rong chơi trên đất Úc, tôi nói Bích Thuỷ rời xa lộ rồi chạy vào những con đường nhỏ để tìm chổ nấu cà phê. Hy vọng mùi cà phê Moka sẽ làm cho mọi người tỉnh ngủ.

Tiếp tục di về hướng bắc để qua tiểu bang Missouri. Vì sáng nay cả nhà dậy muộn nên tất cả đồng ý ghé vào Kansas City mà thôi. Đường vào phố, tuyết càng ít đi làm tôi có cảm giác là nơi này ấm hơn cho đến khi nhìn thấy dòng sông Missouri đóng băng và màu sắc rực rỡ phản chiếu nắng mai.

Vừa rời xa lộ rẻ vào phố thì ngạc nhiên quá, cả một vùng rộng lớn toàn biệt thự kiến trúc cổ kính, đẹp vô cùng. Khu phố nầy như khu Toorak ở Melbourne nhưng rộng lớn lắm. Những hàng cây mùa thu như cây Phong, cây Du, Cây Sồi thẳng tắp dọc theo những con đường vắng. Thành phố đồi dốc, nhà không hàng rào trước nên thấy rất thoáng mát. Nơi này chỉ cách Wichita có ba tiếng đồng hồ lái xe mà nó khác lạ quá.
Chung quanh khu phố Broadway, Nicholas Rd, Ward Prky phố xá kiến trúc theo kiểu Tây ban nha, bắc Phi với những mái ngói âm dương sậm đỏ. Những hình tượng kiến trúc và tháp chuông giáo đường đều rập theo kiểu của Spain, tường nhà được gắn Mosaic rất thẩm mỹ.

Về nhà thì mới biết Francois Chouteau tới đây định cư lâu lắm rồi và xây dựng khu nầy theo lối của cố hương tạo một ấn tượng mạnh cho hậu thế. Qua đây tôi thầm nghĩ không biết một trăm năm sau có ai đến Little Saigon vào con đường Bolsa mà cảm động nhớ tới đám người tị nạn ngày hôm nay không?
Đi đâu cũng thấy hình tượng kiến trúc và những ghế đá công viên được chạm trổ cầu kỳ. Cả nhà ngồi ở Starbucks nhâm nhi cà phê bên hè phố và tưởng tượng như sống lại thời sinh viên bên rạp Rex quận 1 Sài gòn.

Quả thật là Miss…ouri yêu em tình cờ! Tôi không ngờ thành phố này lại chiếm cảm tình của du khách một cách nhanh chóng và trọn vẹn như vậy. Thôi giã từ Missouri! biết đâu chừng có duyên gặp gỡ lần nữa, trong một tương lai rất gần.

Nevada

Hôm nay quyết định không đi Grand Canyon và như vậy Chờ em nơi thềm trăng Nevada sẽ mãi chìm trong cõi mộng.

Las Vegas. Đánh bạc

“Hành trình Nhật ký” đến đây đã khá dài nhưng tôi vẫn lần lữa khi định viết lại những ngày cả bọn bận tíu tít bên nhau ở Las Vegas. Đôi lúc tôi nghĩ là cứ gói nó lại và chưa muốn mở ra. Lần trước chúng tôi cũng gói chặt những kỷ niệm thời ấu thơ trong môt khỏang thời gian dài đằng đẳng hơn ba mươi năm trường.

Kể từ buổi chiều tháng tư năm đó, chúng tôi xa rời thành phố biển thân yêu và chấm dứt những ngày tháng hồn nhiên vô tư chung một mái trường, chung một phố nhỏ. Sau đó chúng tôi như những hạt bụi tan tác trong gió, xô dạt bốn phương. Bị xô đẩy bất ngờ tan tác nhưng chúng tôi vẫn toả ra xa với một hành trang kỷ niệm gần như nguyên vẹn. Ấp ủ và lên men theo ngày tháng bôn ba.

Cho đến khoảng tháng tư năm này, Lệ gọi và nhắc lại những chuyện xưa. Tiếng Lệ thân ái và thúc dục. Không gian cách trở dài hơn một dòng sông của người xưa nhưng kỷ niệm cũ vụt về nổ tung, hâm nóng những ngày thân ái.

Gió đưa chúng tôi tản mác bốn phương và gió lại đưa chúng tôi tụ về điểm hẹn. Cả bọn đến từ bốn phương trời xa lạ. Đoan và Thơ vội vã từ San Diego Gia đình Bích đến từ Tocoma–Seattle, Thi đến từ Washington DC, gia đình Mai chạy qua từ phía Houston, gia đình Kim và Lệ là dân bản địa vì đã định cư ở đây từ ngày bỏ nước. Đám còn lại là bọn tôi những người có tên trên bảng phong thần trong “sự cố Westminster”. Họp nhau ở Fountain Valley hàn huyên chuyện cũ và rồi rũ nhau kéo lên Las Vegas để dàn sòng đánh lớn. Tổng cộng là mười hai người vì Du phải về lại Virginia và nhóm San Diego phải về sớm vì bận công ăn việc làm.

Như tất cả mọi người về đây để chìm mình vào canh bạc đen đỏ. Chúng tôi cũng về đây dể tiếp tục những ngày câu chuyện chưa muốn dứt ở dưới LA, lao đầu vào một canh bạc lớn, đánh cá cượt không bằng tiền mà bằng cả một khối gia tài kỹ niệm to lớn mà tất cả chúng tôi đã cẩn thận chắt chiu mang hoài trên vai kể cả lúc băng qua biển đông.

Ấp ủ gìn giữ suốt một đoạn đường dài ba mươi năm lưu lạc và bây giờ chúng tôi muốn lên đây để thách đố rằng liệu thời gian và không gian có đủ khả năng đánh cướp xoá mờ những kỷ niệm này chăng. Thời gian sở hữu kỷ niệm ấu thơ dài đằng đẳng gần như một đời ký ức của con người.

Không gian xa cách bằng một đại dương. Ánh mắt ngày xưa nay đã nhiều dấu chân chim. Bóng thời gian đã phủ lên những màu tóc nhuộm, linh hồn mệt mõi theo dòng đời. Sôi nổi nhưng cũng có phần phân vân rụt rè đến đây để đối diện với tên cướp của thời gian để khẳng định một thử thách đo lường.

***

Bạn mến, trên đường từ giã Las Vegas bạn có thấy cái hành trang của bạn khác lạ gì không? Hay là bạn cũng như chúng tôi ngồi yên lặng trong một góc phi trường để một chút luyến nhớ những ngày qua.

Xin im lặng một lần thôi, để nhớ
Kỷ niệm xưa yêu biết mấy cho vừa
Gói lại rồi ước hẹn với mộng mơ
Hành trang nặng những điều không thể nói

Thôi nhé! gói chặt lại và hẹn lần họp kỳ sau…

Ngô tấn Bình
Bắc Mỹ 2005/06

   Số lần đọc: 3010

BÌNH LUẬN

Vui lòng viết bình luận của bạn
Vui lòng điền tên của bạn ở đây

Bài Cùng Tác Giả