Lịch sử Việt Nam từ Bắc thuộc cho đến thời điểm thống nhất 1975 bao gồm ba thời kỳ: bị đô hộ bởi Trung Hoa hơn một ngàn năm, tiếp theo là khoảng tám mươi năm dưới ách xâm lược của thực dân Pháp,/tiếp đến bị phân chia làm hai nước do âm mưu thực dân mới của Mỹ trong gần hai mươi năm.
Nhac sĩ Trịnh Công Sơn đã khái quát rất hay nội dung này trong ba câu mở đầu ca khúc “ Gia tài của Mẹ”:
Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày …
Tôi rất tiếc khi phát hiện ra ở câu thứ hai, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết lời ca này theo chủ động cách (có lẽ cho hài hòa với giai điệu, tiết tấu) thay vì đúng ngữ pháp phải theo thụ động cách…
Trong dịp trả lời phỏng vấn do đài FM – TP.HCM thực hiện, một nhạc sĩ tài danh lão thành của miền Nam đã cho rằng không có “ nhạc sến “ vì các nốt nhạc đâu có “ nốt sến “. Về điểm này, tôi cho rằng tính chất “ sến “ ở đây chủ yếu do lời ca, ca từ vì khi nghe lại những ca khúc “ sến “ đó dược biểu diễn dưới dạng nhạc hòa tấu (không lời) thì sự cảm thụ sẽ “ sang “ hơn hẳn (cho dù trong tiềm thức của những người nghe này đã có ấn tượng “ sến “ đối với những nhạc phẩm đó).
Có thể nói ngôn ngữ của các dân tộc trên thế giới đều ít nhiều có sử dụng /vay mượn từ ngữ của các nước/dân tộc khác (trong tiếng Anh gọi là “ borrowed word “). Ngôn ngữ Việt Nam theo dòng thời gian suốt chiều dài lịch sử cũng đã tiếp biến ( adapt ) rất nhiều từ Hán ngữ, Pháp ngữ, Anh ngữ .v.v… mà trong đó cũng có nhiều trường hợp dân tộc ta đã tiếp thu chọn lọc và biến tấu rất tài tình và có khi cũng rất linh hoạt. Trong phạm vi hạn hẹp của bài viêt ngắn này tôi xin dẫn chứng vài trường hợp:
-“nghe thủng”= nghe ra; đây là một trường hợp Hán-Việt đề huề vì trong Hán ngữ, động từ “ “ – phát âm /thủng/ – có nghĩa là: hiểu.
-“mất tiêu”= mất, không còn; đây là một trường hợp Hán-Việt trùng lặp vì động từ chữ Hán “ “ – phát âm /tiêu/ – có nghĩa là: mất.
-“bo”= cho tiền thưởng; là do cụm từ tiếng Pháp “pour boir” – phát âm /buốc boa/.
-“bắc”= phà, bến phà; từ danh từ tiếng Pháp “barque” – phát âm /bac/.
-“phăng”= biến tấu đi; là từ danh từ tiếng Pháp “fantaisie” – phát âm /phăng te zi/- là: sự phóng tác.
-“oản tù tì”: biến tấu từ “one, two, three” trong tiếng Anh mà hầu như mọi người đều biết.
-“phà”= bắc, bến phà; phăng từ danh từ tiếng Anh “ferry” – phát âm /phe rì/.
Trên các phương tiện thông tin đại chúng Việt Nam hiện nay đã có những biến tấu hiện đại hóa (gọn hơn, nhanh hơn) chẳng hạn như: “bày tỏ hân hoan…” mà trước đây là “bày tỏ sự hân hoan…”, thiển nghĩ sự biến tấu kiểu này là chấp nhận được. Trong khi đó còn không ít những trường hợp quan chức, lãnh đạo khi phát biểu đã sử dụng kiểu biến tấu như “năm hai lẻ bảy” (năm 2007) thay vì “năm hai ngàn lẻ bảy” thì vô tình không những không hiện đại hóa được mà còn gây phản tác dụng.
LG. Phạm Hữu Bình
Số lần đọc: 2552