Tôi sợ nhất là viết thư, mà đã viết rồi thì không bao giờ đọc trở lại cả. Ý tưởng vừa viết ra đó, chỉ vài phút sau, thấy sao mà “ngố” quá đổi. Nếu “sơn sửa” lại, đọc cho xuôi tai thì cả tuần sau, thư vẫn chưa chịu xuất gia đến thùng thư. Bởi vậy, nên thư vừa viết xong, vội vàng dán lại, gửi đi ngay. Tú tài I học ban B, tú tài hai ban A. Sau “hai Tú” lại “phải” theo học khoa học kỹ thuật. Văn không có, chương lại quên, chữ nghĩa lỏng bỏng…Tôi phục lăn mấy ông cầm bút, chuyện có ít, lại xít cho nhiều. Tài thật! Ngồi chưa nóng đít, tôi phải đứng dậy đi cái đã.
Từ nhỏ, tôi thích nói chuyện hơn viết. Tháng nào cũng bị phê trong học bạ: “Hay nói chuyện trong lớp”. Đâu phải chỉ chấp nhận lời phê là yên thân đâu, bị ngồi viết phạt dài dài từ 200 đến 300 lần câu: “Tôi không được nói chuyện trong lớp”, sau lúc tan trường hay cà ngày thứ Bảy, Chủ Nhật, trong lúc ngoài kia trời xanh, mây trắng, tiếng chim non chím chíp đợi chờ hay rạp Tân Châu đang chiếu phim mới,mà mình phải ngồi đây chịu trận. “Em tập làm văn” bắt đầu từ lớp Ba, lớp Nhì. Nhập đề, thân bài, kết luận. Tả thú vật thì nhập đề rằng: Nhà em có nuôi một con mèo, lông nó vàng…Tả trâu, tả chó, thì cứ theo đó mà..nhập. Đến lúc tả người, vẫn áp dụng cái câu cố hữu đó, ai ngờ lại bị ăn hột vịt lộn (00/20). “Nhà em có nuôi một ông nội, râu ông dài…” Kể chuyện, thì chỉ có năm, bảy người nghe, viết thì có nhiều người cùng nghe, (đọc), vậy thì phải viết, nghĩ sao viết vậy, viết bằng con tim, viết bằng cảm nhận của tấm lòng. Tất cả chuyện cổ tích đều bắt đầu bằng chữ Ngày xưa… Câu chuyện tôi viết đây cũng xưa, viết để tặng những người xưa, để cùng tôi về lại Qui Nhơn trong tâm tưởng.
Tôi vẫn còn nhớ rõ… những ngày cuối cùng ở Qui Nhơn là những ngày của tháng 11, tháng 12 năm 69. Từ Sài Gòn tôi về thăm nhà, từ giã bạn bè lần cuối trước khi lên đường sang Đức. Mua một quyển sổ tay nhỏ, làm lưu bút kỷ niệm. Trước hết, ghé thăm “mấy em” mình có cảm tình nhất. Rồi đi từ giã thầy, cô cùng mấy thằng bạn. Quyển sổ tay tôi còn giữ, nhưng thầy, bạn bè xưa cũ không còn nữa, kẻ mất, người còn, phân tán mọi nơi. Đôi lúc lần dở đọc lại những bút ký cũ, tôi bồi hồi nhớ lại cố nhân năm nào. Với những em mìmh “chấm”, nuôi cảm tình nhiều nhất, tưởng sự chia ly người đi, kẻ ở ắt phải lâm ly, bi đát…Ai ngờ nàng để lại một dòng muốn “tá hỏa tam tinh”: Mong ông vui vẻ! H.”. Lạnh lùng, hờ hững…vui gì nổi mà mong. Thôi là hết anh đi đường anh!…Thầy Lương trọng Minh viết: “Chúc em Khoa luôn luôn hào hoa phong nhã”. Ý chết, sắp đi du học mà thầy chúc mình như thế, biết lúc nào mới ra trường? Tôi cười thầm vì những dòng sau đây của thằng Trần Minh Hoàng: “Trước giờ sang ngoại quốc. Mình không có gì hơn xin tặng bạn chữ ký để kỷ niệm về sau…” Thật qúi hóa! Trong túi không còn một đồng, đầu không còn một ý, nói chung lúc “kẹt” qúa, lấy chữ ký ra tặng. “Có còn hơn không”. Món quà tặng chữ ký của nó tôi vẫn giữ, Hy vọng nó làm được thống đốc ngân hàng, hay trở thành “Đại xì thẩu” ký tặng cho cái check xài đỡ…
Nghe mẹ tôi kể lại, là tôi được sinh ra ở Bồng Sơn, trong hầm trú bom. Vừa sinh ra, để tôi lên miệng hầm, thì bị máy bay pháp oanh tạc. May mắn là 10 phút trước đó, đã đem tôi đi khỏi chỗ trái bom rơi xuống đúng ngay chỗ nằm. Chết hụt như thế, số tôi sau này chắc thọ? Sau đó, mẹ tôi theo chồng về sống ở Đà lạt, đến lúc tôi được 4, 5 tuổi thì chia tay với ba tôi mang con về ờ tạm nhà bố mẹ ở Qui Nhơn. Thời gian sống ở Đà Lạt, không lưu lại một chút gì trong bộ óc nhỏ nhoi . Đến tuổi nào thì con người biết tri thức, sau khi trãi qua giai đoạn vô thức và nhận thức?. Qui Nhơn của những năm vừa tiếp thu, nghèo xơ, nghèo xác. Nhà Ông Bà Ngoại là dãy nhà kiến thiết, ở đường Võ Tánh, tương đối khá tươm tất. Căn nhà này do cậu tôi mua để làm nhà từ đường. Mỗi lần giỗ quải, con cháu tụ về nấu nướng làm giỗ, không biết giỗ ai? Lại cứ giỗ đều đều… Âu cũng là những dịp, để họ tộc trong gia đình gặp gỡ nhau. Còn tôi chỉ mê mấy món “đồ cúng”, giỗ ai cũng được. Cả ngày, mấy Dì, mấy Mợ loay hoay làm bếp nấu, chiên xào, thật là công kỹ. Tụi nhỏ chúng tôi chỉ chờ cho đến giờ xong cúng, là quây quần lại, đánh chén. Bình thường dễ gì có được mấy món ăn ngon? Sau nhà, ngọai tôi trồng giàn bầu, ngợp mát lá xanh. Xa tí nữa, là cái nhà lá của Dì tôi, trước nhà Dì có cây me chua. Nơi đây là cái ổ gạo bài của hai ông anh họ tôi học thi tú tài. Không biết hai ông ấy muốn làm Tarzan hay sao mà “đóng đô” trên cây để học cho mát? Hay vừa học, vừa ngắm Jane đang ở trọ nhà hàng xóm? Cây me này không phải loại me dốt, trái mỏng, chua lè…Dân “sành điệu” nhìn vào là biết ngay. Me dốt có vỏ mỏng, thịt dầy hơn. Nhiều lúc nhạt miệng, tóm mấy lá me non, cho vào mồm, ngỏm nghẻm nhai, cũng ngon. Cạnh bên là chùa Thầy Năm. Một ngôi chùa nhỏ.. Thầy Năm là người trụ trì, trông nôm chùa, có thể chùa này do ông tạo dựng nên, nên gọi là Chùa Thầy Năm? Tôi không thấy ai làm Thượng Tọa, hay Đại Đức gì ở đó cả. Thầy Năm, dáng người ốm, gầy, nhưng dữ ơi là dữ, đối với ông, tụi trẻ bọn tôi sợ ông hơn sợ cọp. Quanh chùa, sau hàng kẽm gai, mấy cây me dốt hấp dẫn nằm trong sân chùa, những chùm me dốt đong đưa trước gío, nhìn đã muốn chảy nước dãi rồi. Muốn có me ăn, phải “pháo kích” vào chùa. Nhặt những hòn đá nằm rải rác đâu đó, cứ việc “pháo” đại lên cây. Không cần tính tọa độ, mà cứ mỗi lần pháo như thế, me rụng xuống như… sung (?). Lắm lúc, đạn lạc lên mái ngói chùa, kêu rổn rảng, thế là “Cọp Thầy Năm” không biết từ đâu phóng ra, tay cầm cái roi ra trận, miệng chửi bới tơi bời. Chỉ còn cách chạy thục mạng thoát thân, để mặc những trái me rơi nằm trên mặt đất như đợi chờ bàn tay ai cứu vớt.? Khổ một nỗi, nếu Thầy thấy được ai là thủ phạm, thế là Thầy đi “mắng vốn”. Ngày đó bảo đảm được một trận đòn nên thân.
Đêm Qui Nhơn của những năm tháng xa xưa, thật yên tĩnh. Không một tiếng máy nổ (có máy, có xe nào đâu mà nổ). Đi đâu thì cứ xử dụng hai cặp gìo trời cho. Có được chiếc xe đạp, mừng quính quáng. Giàu hơn một chút nữa, thì đi Mobylette, Velo Solex. Cả tỉnh có đâu được vài chiếc là cùng. Mỗi lần có “khách xe đạp” đến nhà thăm, dựng chiếc xe ngoài cửa, lợi dụng ngay cơ hội tập cưỡi một vòng!. Gặp chiếc “xe máy đầm” thì đỡ khổ, gặp chiếc “xe đòn dông”. Hơi ái ngại! Cao quá, làm sao ngồi được trên yên? Phải xỏ chân qua cái đòn dông mà đạp. Cã thân người, đặt khỏi trọng tâm, thấp thỏm một bên, lúc cao, lúc thấp, theo vòng quay cuả cái pedal, như người làm xiếc. Chỉ biết đạp thẳng không thôi, không cua, không quẹo gì cả. Hết đường? Bước xuống, quay đầu xe lại! Tự học như vậy mà ai cũng đi được xe đạp, chưa kể sau này còn lượn Honda qua lại nhà em muốn chóng mặt!
Những đêm nằm ngủ, trên chiếc giường tre để ngoài sân lắng tai nghe “Chương trình nhạc êm dịu” , chương trình Nhạc ngoại quốc, Nhạc chiêu hồi với bài mở đầu chương trình.. “Tung cánh chim tìm vê tổ ấm… ” những lời nhạc như “Người ơi nước nam của người Việt-nam…” , “Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời ...” phát ra từ cái radio nào đó nhà hàng xóm, âm hưởng như vẫn còn quanh quẩn bên tai.
Hôm nào trời qúa nóng, mang chiếc chiếu, mướn xe xích-lô, không phải đi một người mà cả 4,5 người, ngồi, qùi, nằm, đeo… chật cả chiếc xe, ra biển ngủ. Tội nghiệp ông xích lô, chỉ đẩy thôi, chứ đạp hết nổi! Thú ngủ biển ở Qui-nhơn!
Bãi biển dạo đó, còn rộng rãi, sạch sẽ, thiên hạ “nằm biển” đông nghẹt như đi xem múa lân. Những cặp tình nhân chụm đầu, ngồi rải rác, xa xa mấy đám gia đình. Dưới những rặng dương liễu, dưới những gốc dừa, tụi nhỏ rình mò lại gần phá đám bị đuổi chạy có cờ…Lúc gần về, nguời có chiếc chiếu đằng trước, đứng dậy giủ chiếu, bị người còn nằm trên chiếc chiếu đằng sau la hét om trời vì bị cát biển mịn bay vào mặt. Ngoài khơi, lưng tầm mắt Cù Lao Xanh, bóng đèn dân chài Khu hai đi lưới đêm, như một chuỗi ngọc lấp lánh cuối chân trời. Sóng biển thí thào, dạt dào. Nhớ ơi là nhớ!
Thế rồi, mẹ tôi tìm được một căn nhà nhỏ ở đường Trần Cao Vân, trước mặt rạp hát Cọng Hòa. Gia đình tôi dọn về đó. Xóm Cọng Hòa! Căn nhà tranh thật nghèo nàn, đơn giản, nhà chỉ có hai phòng, phòng trước làm phòng khách, phòng sau làm phòng ngủ là hết. Sát tường sau, dựng những tấm phên tre, làm thành cái bếp, để nấu nướng. Vách nhà làm bằng đất sét, trộn với rơm, được tô lên một lớp đất sét mỏng, thoạt nhìn vào như nhà gạch xây. Mái nhà, cứ mỗi hai, ba năm phải lợp một lần. Tranh có hai loại: Một loại bằng rạ, một loại bằng lá dừa. Đôi lúc mái được lợp lại bằng lá dừa. Ôi, cái mái nhà này (vừa tranh, vừa dừa) nó “nuốt” của tôi ít nhất cũng bốn, năm cái răng hàm dưới. Đến tuổi, mấy cái răng sữa, tình nguyện giã từ thơ ngây, tự nhiên bị lung lay, thì cứ tự nhiên mà nhổ, bằng cách kiếm một sợi dây nhợ, một đầu cột vào cái răng, đầu kia cột vào cánh cửa. Thu hết can đảm… Đóng cửa cái rầm!!! Răng rụng xuống cầu ? Không! Răng dính toòng teng nơi sợi nhợ. Phương pháp nhổ răng này, tôi chưa từng thấy ghi chú trong Y-học. Nhổ xong, lấy muối “dịt” lại cái lỗ sâu hoắm, đang ra máu, để sát trùng thế là xong! Ngoại tôi dặn: Nếu răng hàm dưới rụng thì quăng lên mái nhà, cầu khẩn xin cái răng mới. Nếu răng ở hàm trên rụng thì thảy xuống gầm giường để chuột tha đi, sẽ có được cái răng mới (?). Bây giờ, tuổi đời chồng chất, hết còn răng sữa nữa để cầu khẩn xin răng mới, chỉ có nước đi Bác sĩ xin hàm răng giả, vừa đánh răng, vừa hút gío, mấy ai làm được?
Nơi đây, tôi đã trãi qua quãng đời tuổi nhỏ, nhớ mãi đến bây giờ. Nhớ đến những ngày tháng nghèo nàn, theo vận nước. Dạo đó Mẹ tôi buôn bán hàng vải ở chợ Quinhơn. Trong nhà có cái máy may cũ kỉ hiệu Mitshubishi, đặt trong gian trước, mướn thợ phụ may, cắt. Áo quần may xong, được chất, xếp vào trong hai cái thùng thiếc khá to, rồi quảy gánh mang ra chợ bán. Tuy nhà nghèo, nhưng tôi và thằng em vẫn có quần áo tươm tất để mặc. Tôi nhớ mãi cái bộ pyjama sọc xanh lá cây được sắm vào dịp Tết, mới tinh, còn thơm mùi vải, dài qúa khổ. Vì thông thường quần áo hay được “may trừ hao”. Con nít mau lớn, may khít khao, vừa vặn, thì năm sau phải sắm bộ mới, tiền đào đâu ra mà chi? Vẫn chưa hết, nếu năm sau nữa, mặc bị chật, thì bàn giao cho thằng em kế, rồi thằng em kế nữa…nếu bị thủng, thì vá, mặc tiếp đến lúc hết xử dụng được nữa, mới chịu đầu hàng. Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết đã diễn tã :”... Áo anh rách vai, quần tôi có hai mãnh vá… ” Nguyên do chắc là như thế. May qúa, nhà tôi chỉ có hai anh em, tôi là con đầu, được mặc trước, xài toàn đồ origine, mới cắt chỉ. Thằng em tôi, số mạng xui xẻo, sinh sau, đẻ muộn, phải xài đồ second-hand của tôi để lại . Những đêm trước Tết, sao nó dài vô tận, ngủ không yên, chờ trời sáng để diện bộ đồ mới. Trời vừa hừng sáng là tôi đã xúng xính trong bộ pyjama mới tinh, đứng trước nhà…thưởng Xuân! Pyjama là bộ đồ ngủ, trước khi đi ngủ mấy ông Tây, bà Đầm mới mặc vào…rồi lên giường. Dân ta dùng nó để đi bát phố hay mặc trong nhà để quần tây, áo chemise đi bát phố khỏi bị…hao! Mấy tháng đầu tiên ở Đức, mỗi lần đi học Đức ngữ về, tôi vội thay bộ đồ pyjama mặc trong nhà. Mấy người “bạn tây” lại thăm cứ hỏi tôi vừa mới ngủ dậy hay đang bị bệnh? Đâu biết tôi đang hãnh diện trong bộ pyjama may bắng vải popeline mới đem từ nhà sang.
Hàng ngày, tôi thường đến thăm ngoại ở đường Võ Tánh. Nhiều lùc về trễ, tôi đứng đợi ở góc đường Tăng Bạt Hổ, Trần Cao Vân, trước cổng chùa Phật Học, chờ ai đó, đạp xe đi về hướng nhà, vội tháp tùng, tay vịn cái bọt ba ga, chân chạy lúp xúp theo. Vì con đường Trần Cao Vân dạo đó, tối thui, không một ngọn đèn đường, sợ ma muốn chết. Hàng keo bên đường, lúc ban ngày thì xanh mướt, đến tối sao mà bí ẩn, dể sợ, gío thổi đong đưa những cành lá như những bóng ma muốn vồ chập.. Bà con hàng xóm còn đồn: Ở mấy cây keo có “con ma dú dài”mặc áo trắng, tóc xoả chấm đất, hay hiện ra nửa đêm, nhát người qua đường.
Hàng xóm chỗ tôi ở đồn rằng (lại đồn):
– Trong rạp Cọng Hoà có ma !
Tôi không biết có thật hay không ? nhưng chắc chắn là 7, 8 giờ tối là tôi hết còn bén mãng chơi trước rạp nữa.
– Nhưng có bao giờ “thấy nó” chưa ?
– Chưa!
Chỉ mới “nghe nó” mà thôi. Chứ “thấy nó” rồi chắc tôi đâu còn sống sót đến ngày hôm nay. Nhiều đêm nằm ngủ, tôi nghe văng vẳng tiếng vỗ tay từ rạp, rồi tiếng trống chầu và tiếng hát lơ lớ từ rạp vọng đến. Âm thanh nghe không rõ lắm, như từ một cõi xa xăm nào đó vọng đến…Dạo đó, còn có vài gánh hát bội, như gánh hát bội miền trung, thỉnh thoảng trình diễn ở rạp. Nhưng những đêm nghe những “tiếng động kỳ dị” này là những đêm rạp bỏ trống. Bà con ở rạp Cọng Hòa và trong nhà đều công nhận với tôi ở điểm này, Đến bây giờ, tôi không thể giải thích hiện tượng này thật sự có hay chỉ là một ảo tưởng trong giấc mơ? Hay chỉ là tiếng xào xạt của hai cây rục rạc trước nhà? Rồi một đêm nọ, trời mưa, gió khá lớn, cây đèn hột vịt để trên bờ tường phát ra ánh sáng yếu ớt, không đủ soi sáng căn phòng. Đang ngủ, tôi bỗng tỉnh giấc ví có tiếng động khác lạ trong phòng, rón rén, vén một góc mùng, nhín ra bên ngoài. Trời ơi! Ma! Đúng là ma rồi, nó bay từ bên này, sang bên kia, đầu đội nón, mặc áo dài trắng toát. Vội vàng nhìn xuống dưới chân xem nó có đi hổng mặt đất không? C..ó! C..ó! Nó đi hổng mặt đất cả nửa thước! Hồn vía tôi lên mây hết, tay chân cứng ngắt, miệng khô đắng muốn hét lên, nhưng không tài nào làm được, tôi vội trùm chăn kín mít, nín thở, gỉa chết. Lỡ con ma nó vén mùng lên xem xét, thấy mình ngủ như chết, chắc nó tha cho. Trong nỗi lo sợ, phập phồng, tôi thiếp đi…cho đến sáng. Mở mắt, thấy trời sáng, yên tâm, tôi vội vén mùng, nhìn ra. Con ma vẫn còn đó, phất phới, đong đưa một chỗ, nhưng trông hơi quen thuộc. Số là, đêm qua mẹ tôi đi làm về, cởi áo dài và cái nón, móc vào cái móc treo áo, treo lên sợi dây treo đồ, chắn ngang phòng. Trời gío, thổi chiếc áo dài cả cái nón bay qua, bay lại. Trong cảnh tranh tối, tranh sáng, nó bay như thế, lại đi hổng mặt đất, đúng thực là ma rồi chứ còn chối cãi gì nữa?.
Đôi khi ngủ, tôi bị “mộc đè” có cảm tưởng như ai đó đè lên người, chân tay không cựa quậy gì được hết, cổ bị bóp lại, phải vùng vẫy, kháng cự một lúc mới thoát. Ngoại tôi nói: Nếu cây bị dính máu của thợ chặt cây, mình lấy cây đó làm nhà sẽ bị mộc đè. Tôi không hiểu Mộc đó là gì? là ai? Là ma trong cây(?) Hay nằm ngủ ở một tư thế không thuận lợi, bộ máy tuần hoàn bị ứ nghẽn nên bị ngạt thở? Lạ một điều: (cô, hay Bà) Mộc? chỉ chịu đè tôi ở Việt-nam không thôi. Chứ tôi đã sống và đã ngủ hai phần ba cuộc đời ở Âu châu, nằm đủ kiểu, đủ thế, nhưng chưa bao giờ tôi bị mộc đè như lúc còn ở nhà. Tôi không tin ma quỉ (nhưng cũng hơi sợ). Nếu có ma, tức phải có một thế giới vô hình nào đó. Những gì mình làm ác, làm bậy trong kiếp sống này thì hẳn kiếp sau phải trả lại. Nếu nói đến ma, trong số 100 người , có đến 101 người đã từng thấy ma, gặp ma, Nhưng vẫn phản trắc, lường gạt, hãm hãi người khác như thường. Không sợ kiếp sau phải trả nợ chăng? Tôi sợ nhất mấy con ma đang sống, chứ không sợ mấy con ma chân đi không chạm đất, những oan hồn vất vưởng…
Dần dà, mấy gánh hát bội miền trung chết lần mòn (một thời, thiên hạ chen nhau xem coi Tiết Đinh San cầu Phàn Lê Huê, Trụ Vương-Đắc Kỷ…chật rạp). Những gánh cải lương từ miền Nam ra Qui Nhơn trình diễn, thiên hạ mê cải lương, bỏ xem hát bội. Mấy con ma hát bội chắc buồn lòng bỏ rạp đi đâu mất, tôi không còn nghe tiếng hát lơ lớ, tiếng vỗ tay và tiếng trống chầu vọng về giữa đêm khuya nữa.
Phong trào xem cải lương lên cao, liên tiếp nhiều gánh cải lương như Thanh-Hương, Kim Chưởng,Thanh Minh-Thanh Nga, Minh Chí-Việt Hùng…mướn rạp trình diễn. Tôi trở thành con ma mê cải lương! Ở trước rạp hát, đôi lúc cũng có lợi, tuồng tích nào cũng biết và thuộc lòng (học bài thì ít thuộc chứ tuồng cải lương thì khỏi phải hỏi) chẳng hạn như tuồng “Hồn thiêng sông núi“, “Bát cơm chan máu”, “Tình cây duyên lá“…Lâu lâu được vé mời, lại nữa, chờ thả cửa vào xem ké “đoạn cuối cuộc tình” không mất tiền! Đào chính, đào lẳng, Kép độc, kép chính mướn nhà quanh xóm ở. Làm Vua, làm Tướng, trên sân khấu, uy quyền một cõi. Hết tuồng, trãi ghế bố nằm ngủ ngoài hiên. Đâu cung vàng, điện ngọc? Đôi lúc, tôi rất ngạc nhiên vì thấy “tà tướng” mới chết trên sân khấu đó, vãn tuồng, lại thấy “tà tướng” ngồi húp cháo gà rẹt rẹt cạnh bà bán cháo trước rạp. Chắc “hồn ma” cuả tà tướng cả ngày chưa ăn, nên đói? Cái bệnh mê cải lương của tôi kéo dài cho đến lúc tôi học Đệ thất, thì dứt hẳn. Nguyên do: nhà tôi có được cái vé mời danh dự của đoàn hát Kim-Chưởng đang trình diễn ở rạp Kim Khánh, nhưng vì bận việc mẹ tôi không đi xem được, tôi được phép đi thế. Đang chễm chệ ngồi ghế danh dự (gần sân khấu nhất) bị ông soát vé, lôi cổ đuổi xuống hạng đứng, vì không tin tôi có được cái vé danh dự, mặc bao nhiêu biện bạch, phân minh cùng chứng cớ. Từ dạo đó, tôi ghét xem cải lương, ghét luôn 6 câu vọng cổ, ghét cả tuồng tích, thấy cải lương…” sến”! Mới thấy là:
Thương em, thương cả đường đi
Ghét em, ghét cả tông ti họ hàng
Phải tôi ghét tông ti họ hàng nhà cải lương. Tôi quay sang mê xem ciné. Thỉnh thoảng ở rạp Cọng Hòa chiếu phim đen trắng như phim “Bích câu kỳ ngộ” (vào cửa 5 đồng). Lúc ấy tôi khoảng 11, 12 tuổi mà mê nữ nghệ sĩ Kim Cương như điếu đổ. Thật ra là tôi mê nàng tiên Giáng Kiều từ trong bức tranh bước ra, lau nhà, phủi bụi, nấu cơm cho anh chàng thư sinh Tú Uyên đi học về ăn, khỏi phải nấu nướng gì cả. Khỏe re! Tiên ơi là tiên! Sao mà đẹp lạ lùng…Mau chóng lớn, lấy Tiên.Trước rạp, dạo đó có ông chiếu phim lưu động, nguyên cả “rạp ciné” nằm trên chiếc xe đạp, gía cả rẻ rề, chỉ có 5 xu. Nhưng mỗi lần chỉ có ba người xem được qua ba cái lỗ, khoảng 1, 2 phút là hết phim. Nguyên tắc chiếu phim như quay phim hoạt họa. Chẳng hạn như hai võ sĩ đánh box với nhau, được vẽ sẵn trên một quyển sách nhỏ, dày như một quyển tự điển, lấy tay giữ những trang giấy, xong thả ra cho những trang rơi đều liên tục từ sau đến trước, thành một cuốn phim bỏ túi.
Tôi vẫn còn nhớ ông hớt tóc dạo với chiếc ghế xếp và một cái thùng nhỏ chứa gương, lược, tondeur…Khoảng hai ba tuần, ông lại ghé mỗi nhà xem chừng có ai muốn hớt tóc không? Tôi và thằng em trở thành thân chủ quen thuộc của ông một dạo khá lâu. Hớt cho người lớn, thì ông có sẵn sợi dây nịt, móc lên một chảng cây nào đó để mài con dao cạo râu. Tôi chưa có diễm phúc thưởng thức những đường cạo điêu luyện của ông, dạo đó…râu chưa mọc! Bẵng đi một thời gian, không thấy ông xuất hiện nữa. Ngay góc đường Trần cao Vân/Tăng bạt Hổ có tiệm hớt tóc, ngoáy tai mới mở, thân chủ “đổi hãng” dần dần. Tóc ra dài, chờ ông, biết lúc nào ông đến mà chờ? Mấy ông thợ hớt tóc Việt Nam, kiêm luôn nghề ngoáy tai, không cần phải có bằng bác sĩ. Thế mà không ai bị lủng màng nhỉ cả, mới tài! Thân chủ được hưởng những giây phút vừa đê mê, vừa hồi hộp (vì sợ lủng nhỉ) tất cả giác quan đều tập trung vào lỗ tai, uốn éo, vặn vẹo thân người (nhưng rất chậm) theo độ sâu của cây ngoáy vào, ra…Mọi cử đông bất chợt, không kiểm soát, có thể dẫn đến sự “nói không nghe”. Cao điểm cuối cùng: Ông thợ cắm cây ngoáy đầu có gắn chùm lông tơ vào tai, Dùng năm ngón “rẹt” một đường lả lướt lên cây ngoáy, như một nhạc sĩ đánh dương cầm, vuốt một đường trên phím trước khi chấm dứt. Trong tai nghe như một tràng súng liên thanh hay sấm sét nổ. Xong! Voilà..! Sau đó, cổ được bẻ nghe răng rắc, tạo cảm giác cái đầu như nhẹ hẳn đi…vài ký!. 10 đồng! Ông hớt tóc dạo, với cái ghế xếp, không còn thấy xuất hiện nữa, hay là ông cũng đã định cư ở một chỗ nào đó? Kiểu tóc của tôi chỉ có một kiểu độc nhất là “demi-court”, trông giống tân binh mới vào quân trường, cho đến lúc học Đệ Lục, mới để dài bồng bềnh kiểu Elvis Presley, vì đã bắt đầu biết… diện. Không chịu để hớt demi-court nữa, sợ mấy em chê “quê”…!
Cuôc sống là sự biến đổi không ngừng. Thành phố Qui Nhơn cũng đã, đang và sẽ biến đổi nữa. Từ những ngày tháng thanh bình, an lành, sống trong thành phố “nghèo rớt mồng tơi”, cho đến lúc chiến tranh bùng nổ. Quân đội Đại Hàn, Mỹ vào thành phố. Bỗng dưng, thiên hạ khá giả hẳn ra, xây nhà mới, xây nhà thêm, mở bars, chạy Honda dame, Suzuki …Bộ mặt thành phố trở nên náo nhiệt hơn. Bấy giờ Qui Nhơn có thêm hai rạp: Kim Khánh, Lê Lợi. Rạp Cọng Hòa, không còn ai đoái hoài đến nữa, chờ ngày khai tử. Rạp bỏ trống quanh năm. Con đường Trần Cao Vân lúc trước chỉ chạy dài đến đường Hai bà Trưng là chấm dứt. Sau đó là những mả Tây, cát, xương rồng. Mả Tây được hốt đi , nhà cửa được xây lên, con đường được nối dài, kéo dài ra tận biển, đụng cái bồn binh. Đầu tiên, sân sau nhà tôi cũng biến đổi. Vào năm 65, sau chín tháng từ Đà Nẵng trở về, trên sân sau cái nhà tranh, nhà tôi có thêm một căn nhà mới xây, để gia đình ở, còn căn nhà trước cho thuê. Cây keo, cạnh cái chuồng heo, cả mấy cây keo đằng sau, không còn đó nữa. Cây thầu đâu cạnh nhà cũng bị đốn đi trong lúc tôi vắng mặt. Từ dạo đó, tôi không còn được thấy cây thầu đâu nào khác. Một thời chung sống từ nhỏ với nó. Cây thầu đâu, không biết nó có một công dụng gì không hay chỉ để buồn mùa Đông (Sầu Đông)? Nhưng nó là một điểm tựa trong trí nhớ tuổi thơ của tôi. Những đêm trời nóng, trãi cái ghế bố, giăng mùng ngủ ngoài sân. Nhìn lên tàng cây lá nhỏ của nó, với một nỗi lo sợ vẩn vơ. Sợ ma! Một lần, nhìn ông đồ tể làm thịt con heo, nấu nước nóng cạo lông trong một cái chảo to tổ tướng đặt dưới cây thầu đâu. Trong chảo chưa nóng nước, lửng lơ cái chi xoắn xoắn, dài dài, dính chút mỡ sau đuôi?
Tôi hỏi:
– Cái gì?
– Cái này hả? Là “cái đó, của nó”, đặc biệt cho mày, ăn để khỏi nghiến răng.
Ông thợ làm heo đáp. Nghe xong, muốn hết nghiến…Thật ra, sự việc không đến nỗi kinh hoàng như tôi tưởng, món luộc này, chắm nước mắm ớt, tỏi, nhai nghe “sựt sựt” Ngon! Ăn rồi, lại tiếc hùi hụi. Gía gì con heo có thêm ba, bốn cái nữa, đỡ biết mấy!… Không biết những “phương thuốc ông bà để lại” có công hiệu gì không, chứ tôi đã phải can tâm thử qua tất cả rồi. Một hôm, trèo lên cây rục rạc với cây cung làm mọi da đỏ bắn cao bồi. Đứng trúng chỗ dòn, bị té xuống nhằm cạnh của cái thềm trước nhà. Tôi bất tỉnh, thở hết ra hơi, đến lúc tỉnh lại, nghe tiếng mấy người hàng xóm lao xao:
– Giả củ gừng! Mau lên! Thằng cu miệng rộng đâu ? Đái vô cái chén đây con.
– Sau mầy không chịu đái gì hết trơn dậy con?
– Để thủng thẳng nó đái, chứ bà hối nó qúa, nó đái đâu được.
Tôi được đỡ dậy, bị trút nguyên một hơi chén nước tiểu giã gừng vàng vàng vô miệng, không được phản đối. Ông bà mình “kỹ lưỡng” chỉ chọn nước nguyên chất của đồng nam (tức con nít) chứ của người lớn thì miễn xài! Vài phút sau, tôi đi đứng mạnh khoẻ như thường. Không biết là do tác dụng “nước Cam lồ của thằng Cu miệng rộng” với múi gừng, hay chỉ bị tức hơi trong giây lát rồi khỏi?
Con nít đái dầm thì phải ăn cái mang xốp xốp (phổi) hai bên hông con cua, không được ăn phần thịt (là phần ngon nhất). Sẽ bị đái tiếp (không tin!). Ăn cái gì mà như ăn lông gà nhúng nước, chẳng ngon lành gì hết. Ai bảo “đấm dài” làm chi? Bị suyển, lên đàm khò khè hả ? Không sao! Bắt con thằn lằn, để vào miệng, bấm cái đuôi, nó chạy tọt xuống bụng. Hết suyển! Hết khò! May hồn, món thuốc này tôi chưa “bị” thử qua lần nào.
Căn nhà của ông cậu cạnh bên cũng trở thành căn nhà gạch, lên lầu. Bụi chuối sau nhà, nơi mà tôi đã nhan đèn chôn cất tử tế con két bị chuột cắn chết đêm nào cũng biến mất. Cái hầm rác đã được lấp đi từ hồi nào, lại có thêm cái nhà. Xây thêm cái tường, tráng sân xi măng cho sạch sẽ. Cây, cỏ bị đốn đi nhẵn rụi, hàng kẽm gai nơi mà lúc xưa, mỗi chiều có một bầy chim xanh, tôi không biết là chim gì? hay về bay lượn, đã đi tìm nơi khác, nhường chỗ cho sự chinh phục của loài người. Chung quanh, thành phố đang bành trướng. Tuổi thơ tôi bắt đầu qua một giai đoạn mới…Giai đoạn tuổi choai choai: ” lấy trăng gối mộng, dệt nhiều mộng ước xa xôi…”. Những ngày đi tìm cái chạng làm ná bắn chim (tìm được cái chạng của cây ổi thì tuyệt), Những đêm chơi đá lon, tạt bao thuốc, hay ngồi đánh ô làng, đánh thẻ, nhảy dây, nhảy chuông với con gái từ từ lùi dần vào quá khứ. Nhưng những kỷ niệm ngày thơ, vẫn còn in sâu đậm nhất trong tâm tưởng. Càng lớn, càng già, càng có những nỗi khổ tâm.
Đã trên 30 năm, chưa một lần về thăm lại thành phố. Trong thời gian này ắt hẳn thành phố càng đông người, càng đông nhà, nhưng có càng vui? Có thể tôi chỉ sẽ đến thăm một lần như một du khách, để chứng giám sự đổi thay, rồi thôi. Thời gian đã xoá nhòa những kỷ niệm xưa cũ, còn gì mà lưu luyến? Những thằng bạn của “một thời dại gái”, nay đã hom hem. Những bóng dáng yêu kiều, một thời làm tôi ngây ngất, chỉ còn tồn tại trong trí nhớ. “Em diễm lệ, em bé bỏng, em dễ thương,..” độ nào như nàng tiên trong phim “Bích câu kỳ ngộ” năm xưa, đã bước ra khỏi bức tranh đi về một nơi nào đó, để lại trong tranh một khoảng trống vô duyên…
Bùi Đăng Khoa
2003
Số lần đọc: 2857
RE: Xóm Cọng Hòa
Thân chào Khoa,
Lê Huy cũng rất thân tình với xóm Cộng Hòa của Khoa trên đường Trần Cao Vân đó.
Nhớ hồi tụi mình sinh hoạt Sói Con, LH có đến nhà bạn chơi. Tôi nhớ bạn có người em là Bùi Đăng Học, bây giờ Học ở đâu?
Trong xóm này, tôi cũng rất quen thân với Lê Thị Ngọc Tú và Lê Thị Ngọc Hạ (bà con với Khoa thì phải).
Bên cạnh nhà bạn có quán bánh bèo ăn với nước mắm nóng, ngon tuyệt!
Đối diện nhà bạn có rạp hát Cộng Hòa mà có lần nội tôi dẫn tôi đi coi hát bội ở đó. Mà hồi đó mình còn nhỏ xíu có biết coi gì đâu.
Có dạo tôi học thổi kèn clarinet do bác Mộng dạy, nhà bác ở gần cổng phụ vô chùa Long Khánh đó.
Còn nhân vật Trần Minh Hoàng trong bài này của bạn, theo tôi thì đó là Sói Con Đào Minh Hoàng con của bác Chụp Hình Đào Địch ở trên bến xe cũ một chút. Tôi nhớ vậy chẳng biết có đúng không !?
Thôi… Khi nào rảnh rỗi tôi sẽ nói chuyện nữa với bạn nghen.
Thân Ái Bắt Tay Trái Bạn.
Lê Huy
RE: Xóm Cọng Hòa
Không biết anh viết bài này từ năm nào?anh nói đã hơn 30 năm chưa về thăm quê hương!nhưng tôi nhẩm tính từ khi anh đi du học đén giờ cũng đã 40 năm rồi còn gì? không biết những năm gần đây anh đã về thăm quê chưa? Qui Nhơn bây giờ thay da đổi thịt hoàn toàn & rất đẹp…là thành phố du lich được nhiều du khách yêu thích…! Thành phố bây giờ rất nhiều cây xanh mát mẻ không còn những gốc cây keo như anh kể nữa đâu!
Đọc bài này tôi không nén được cười thành tiếng …với phương pháp nhổ răng sữa thật độc đáo của anh ! đúng là chưa từng thấy ghi chú trong y học,chỉ cần đóng cữa cái rầm là xong….tất.
Bài viết chỉ kể lại quãng đời tuổi nhỏ ,& quê hương thân yêu 1 thời đã sinh sống ,khoảng thời gian để nhận biết cuộc sống chỉ hơn 10 năm,mà ký ức trong anh thật rõ ràng & sâu đậm!Qua nhưng bài viết của anh tất cả đều hay & hấp dẫn!
chuyện Mỹ Hiền sống ở Úc không ngờ anh con rõ hơn tôi! vì MH là bạn học cùng lớp cách nay 2 năm MH có về VN & tổ chức họp mặt bạn bè nhưng không liên lạc thường xuyên,nên chỉ nhớ mang máng vậy thôi! Chúc anh vui khỏe!
NGUYENPHUCL SG
Để trả lời một câu hỏi: Bạn NguyenPhuCL,
bài này tôi viết vào năm 2001, đã có đăng trong ĐS CD&NTH Houston.Gớm, bạn “tính tán” kỹ qúa, làm người viết giật mình. Trong năm nay 2010 tôi có về thăm QN sau hơn 40 năm…Nói thật, tôi có cảm tưởng như Từ Thức về trần. Hàng Me keo đâu rồi? Rạp Cọng Hòa đâu mất (giờ là tiệm đấm bóp của người khiếm thị, hầu như mỗi ngày tôi đều ghé vào để được “mằn” cái lưng. Cái Đầm cũng không thấy nữa…Vật còn đổi, sao còn dời…thì sá gì “ba cái lẻ tẻ”. Thành phố bây giờ đẹp lắm, tôi ở Khách sạn Ý Linh được 2 tuần. Khách sạn mới xây, gía cả phải chăng, đáng giới thiệu lắm. Đúng như lời tôi viết:”…tôi chỉ sẽ đến thăm như một du khách…” rồi ra đi không một lưu luyến. Nếu bạn là bạn học của MH, bạn phải là dân Bồ Đề rồi. Còn nhớ Lê thị Khiêm? Nếu bạn theo dõi những bài tôi viết sẽ thấy tôi học gần 4 năm Bồ-đề. Một năm CĐ thôi. Dân Cái Bang, hạng 1 túi mà…Hy vọng tôi đã “giải phóng” được những thắc mắc của bạn. Thân ái-Khoa
RE: Xóm Cọng Hòa
Cám ơn!anh đã giải phóng những thắc mắc trong tôi rồi! bái phục anh quá! những gì tui nói ra anh đều biết rõ hơn tui cả! MH ở Úc anh cũng rõ hơn tui,bài thơ 60 chưa gọi là già anh cũng biết luôn! đúng là bài thơ đó còn doạn kết như anh đã viết tiếp !tưởng anh chưa biết nên ngắt bớt 10 tuổi vì cái đoạn đó ….tức cười quá nói với anh tui cảm thấy kỳ kỳ…nên bỏ bớt!
Anh đoán tui học Bồ Đề cũng đúng luôn! Tui &( KIM CHI giới thiệu chương trình hát ở đài phát Thanh QN} đều là bạn học chung với Nỹ Hiền & KHIÊM cả! hôm MH về VN hop mặt có mời KHIÊM từ Phú Phong vào SG,Khiêm vẩn hiền & dễ thương có diều do hoàn cảnh sống nên trông có vẻ khăc khổ hơn 1 chút!Anh có biết Huyền Nhung không?
có khi chúng ta biết mặt nhau không chừng đó!anh viết bài hay lắm tôi rất thích đọc!Thân ái chào! KIM LOAN