Trang sinh hoạt của Cựu Giáo Sư và Học Sinh trường Trung Học Cường Đễ Qui Nhơn

Trang NhàĐoản VănBùi Đăng KhoaMột thời cắp sách...

Một thời cắp sách…

Không biết bao nhiêu lần rồi, tôi ngồi vào bàn, bật máy tính, chủ ý mỗi ngày viết vài dòng cho Đặc san. Còn khỏang non một tháng nữa, tức là 30 mgày, mỗi ngày cho là 10 dòng đi, cộng, trừ nhân chia nhẩm tính khoảng 300 dòng, “dư sức qua cầu “. Nhưng mưu sự tại tui, thành sự cũng…tại tui luôn! Tính viết về vụ gì đây? Tìm đề tài để viết, khó lắm bạn ơi! Chuyện năm nẳm, năm xưa, đã khui ra hết rồi (gần hết). Tôi than thở với ông bạn, ông ta nói:

– Nếu không nghĩ ra đề tài gì, thì viết về nhân sinh quan, về sinh hoạt cuộc sống, thiếu gì chuyện để viết, hễ muốn là được.

Tôi muốn lắm chứ, nhìn cuộc đời qua quan niệm của mình nhưng sợ đời chưởi, người quở, không vui. Nhớ một vài mẫu chuyện, tính viết, thuật lại, nhưng ý thì nhiều, viết ra chẳng có bao nhiêu. Càng ngày, càng gìa, (kỳ cục thật). Nghĩ đến đây, tôi chợt nhớ đến một câu cải lương trong tuồng “Thuyền ra cửa biển” do kép Út trà Ôn hát vào thời 1957/1958 nghe rất cải lương, và “mùi” hết chỗ chê:

Mới đầu hôm, mà tóc ta đã bạc gần nửa mái, mới đâu hôm, mà ta thấy đổi thay, bao nhiêu lượt gió giông trong tình cảm… “.

Ông hàng xóm cạnh nhà có cái máy hát dĩa có hình “con chó ngồi nghe”, bạn còn nhớ ? Nó có cái loa tòe ra như bông kèn, mỗi lần muốn nghe phải lên giây thiều, bỏ cái diã hát, chắc làm bằng đá, bằng sành hay sao đó, mà nó nặng chình chịch, để rớt xuống, là tan thành trăm mảnh. Ông hàng xóm này là ông Huỳnh Văn Sáo, người Nam, dĩ nhiên ghiền nghe cải lưong (tôi cũng là đã là tên ghiền Cải lương hạng nặng thưở đó, sau này ” đổi nghề ” rồi, ghiền xem Ciné rạp Tân châu). Dạo đó, ai mà có được cái máy hát dĩa, là sang lắm lắm. Mỗi lúc chiều tối, ông hay mang máy ra, quay, quay vài vòng, lên giây thiều, là tiếng hát Út Trà Ôn, Út Bạch Lan, Thành Được vv…vang lên trong buổi chiều tà, nhiều lúc đến khuya…Nghe mãi , rồi thành nhập tâm luôn!

Lũ nhỏ chúng tôi hay hát đùa:

“Công tử Bạc liêu, đứt giây thiều, rớt xuống cầu tiêu…”

Nếu không biết cái máy hát Grammophon nầy, tôi sẽ chẳng biết giây thiều là giây gì?. Còn giây thiều của ông công tử Bạc liêu, tôi đoán ắt hẳn là giây lưng quần.

Nhà ông Huỳnh Văn Sáo còn có nhìều bộ cải lương hấp dẫn lắm như ” Mưa rừng “, “Người vợ không bao giờ cưới” trong đó nhân vật chính là Sơn nữ Phà Ca (…Em là Sơn nữ Phà Ca, tóc cài hoa tím, chính là Phà Ca…). tuồng ” Rắn Thần báo thù ” (đại ý kể ông thợ săn, đi rừng, thấy con rắn mái “nhảy dù” với con rắn lạ, trong lúc rắn chồng đi vắng, ông nổi sùng phang cho đôi gian phu, dâm phụ một dao, tiêu tùng cả cặp. Rắn chồng về, thấy vợ chết nên tìm hung thủ, trả thù, nhưng mổ hụt, thợ săn không chết, sau khi giải bày mọi chuyện cho rắn chồng nghe, rắn hối hận, nhả một viên ngọc tặng ông thợ săn, với viên ngọc này ông có thể nghe tất cả (và hiểu)tiếng muôn loài…Tôi phải bỏ ngoặc chữ “hiểu”, vì tôi cũng có thể nghe tiếng muôn loài, muôn người, nhưng hiểu chỉ có hai thứ tiếng: Đức-Việt).

Năm đầu, tôi lò dò về góp mặt với anh chị em bạn hữu đại gia đình CD&NTH. Tôi “lỡ dại” khai với ông chủ bút là đã có viết bài cho Phổ Thông và Thằng Bờm. Nhưng đó là chuyện của 40 năm về trước. Lúc ấy tiếng Việt, hồn Việt của tôi còn đầy ăm ắp…Vì đi học xa, nên nhớ nhà, nhớ bạn, nhớ bồ…Tình cờ đọc đựơc tập báo Thằng Bờm ở nhà một du học sinh đàn anh đi trước. Năm ấy, 1971 có thể 1970, miền Trung bị lụt, năm nào cũng lụt, cũng bão, nhớ chệch một năm cũng chẳng sao. Thằng Bờm ra chiến dịch quyên góp ” Một lon gạo tình thương” cho bão lụt miền Trung. Tôi xúc đông gửi về cả chục lon…Thưở ấy, ở đây (Đức) làm gì có gạo bán mà mua, có chăng là loại gạo để trong túi nhựa, bỏ vào nước đun sôi, chờ chín treo lên cho khô, rồi xực.. phàn. Cái bao tử được nuôi nấng cho đến tuổi này bằng cơm, bằng cháo, bằng xôi…Sang nước người, họ xực toàn là bánh mì đen, khoai tây…chứ đâu có “xực phàn như” người mình! Gọi ăn cơm, thật ra để có mà ăn, chứ ” Ăn cơm như thể ăn rơm” vậy.

Tôi gửi Coupons (hồi thời đó dược xử dụng như một loại tiền tem tín dụng. Thí dụ bạn muốn mua 50, 100 đồng tiền tem chẳng hạn. Bạn ra bưu điện, mua loaị tem coupons này (có giá trị trên toàn thế giới hoặc ở những quốc gia có thỏa thuận). Bạn gửi coupons đi, thân nhân, bạn bè bạn có thể đem coupon này đổi ra tem ở quốc gia mình đang cư ngụ, và có thể xử dụng, vì ngại thân nhân hay bạn bè thiếu tiền mua tem, nên họ đã nghĩ ra lối dùng coupons này. Tòa soạn Thằng Bờm dùng coupons tôi gửi để liên lạc với đọc giả, thì trả lại bằng tiền để mua gạo. Chị Diệu Huyền (tức là Bác Nguyễn Vỹ) dụ dỗ tôi nên viết bài kể lại những vui buồn của sinh viên du học, những tập tục, tập quán “của Nẫu”, để cho các “teen” (các em) học hỏi thêm. Tôi hăm hở cộng tác không lấy nhuận bút, có phải là thợ viết đâu mà đòi nhuận bút, chỉ với một tấm lòng cho quê hương. Lâu lâu mới viết một bài, vì biết mình trình độ Việt ngữ hơi kém. Với loạt bài viết, gửi từ hải ngoại, là một sáng kiến lạ của tuần báo tuổi thơ này, thế rồi tôi nhận mỗi tuần cả chuc bức thư từ nhà gửi sang, phần nhiều đòi tôi nhận làm “em”, phần đông gái nhiều hơn trai, để hãnh diện vào lớp khoe với chúng bạn:

– Tao có thư cuả anh đi du học gửi về.

Ban đầu thấy mục trả lời bạn đọc cũng vui, tôi hăng hái trả lời. Nhưng, cầm cự trả lời các em được non một tháng, thì tôi bỏ cuộc. Lý do: tài chính eo hẹp, „lương sinh viên” vừa đủ ăn, còn dư đâu để dán tem trả lời những người em yêu mến, ở xa tít bên kia bờ Đại dương…Thư gửi về nhà, thì vài ba tháng mới gửi. Nay lâm vào vai trò “làm dâu trăm họ” này, khổ lắm!, viết, trả lời lia lịa…Tôi mới chợt hiểu, anh Chủ bút Đặc san nhà mình rất tằn tiện chữ nghĩa trong thư trả lời… Bận bịu trong công việc lo chỗ học, lo chỗ làm thực tập trước khi ghi danh vào trường, bẵng đi từ đó, tôi không hoạt động gì nữa trong việc báo chí.

Trên 30 năm nay, tôi rất ít tiếp xúc với công đồng người Việt, ít có bạn Việt nam. Đã từ lâu lắm, tôi cũng ít đọc sách, truyện Việt nam, vì không có rung cảm nữa. Sách vở, của một thời cực thịnh văn chương miền Nam, được tái bản ở ngoại quốc, có mua về rồi cũng để đấy, đọc thấy chán vì nó không phù hợp với không gian và thời gian nữa. Vào mạng đọc tin tức bên nhà. Tôi không còn nhận ra văn hóa tiếng Việt nữa, nó xuống dốc một cách thảm hại. Thế hệ tôi, thế hệ chúng ta có môn học Việt văn, học điển tích, từ ngữ, học làm luận, học làm văn…. Đọc bài tường thuật trong báo, độc gỉa cảm nhận được nhà báo, phóng viên là những người trí thức, không những họ chỉ giữ nhiệm vụ thông tin thôi, mà còn quảng bá tiếng Việt trong mọi tầng lớp dân chúng. Tiếng Việt rất nhạy cảm, chỉ cần sai lỗi chính tả thôi, sẽ có một nghĩa khác và làm giảm bớt gía trị của áng văn. Trên mạng, trên báo chí hiện nay tôi đọc thấy toàn từ ngữ của những kẻ gọi là phóng viên nhà báo, nhưng viết rất cẩu thả, dùng từ ngữ theo lối giang hồ hạ lưu đọc mà đau đớn lòng.

Những nguyên do đó làm trình độ tiếng Việt tôi sa sút dần. Nhà thơ Cao Tần (tôi không biết ở đâu) làm hai câu thơ, tôi cho là hợp với tình huống của tôi hiện giờ.

Tiếng Việt trong ta, ngày mỗi héo
Hồn Việt trong ta, ngày mỗi khô

Đọc Đặc san Cường để & Nữ Trung Học, tôi bắt gặp mình trong qúa khứ. Vì những bài viết, là những từờng thuật có thật, hoặc những khung cảnh trong môt không gian và thời gian tôi đã sống. Có rung cảm, bạn mới thích đọc. Có người cho rằng: viết văn, là không thật với chính lòng mình , vì phải dùng trí tưởng tượng, thêm trước, bớt sau, để đưa kẻ đọc vào sự không thật. Chuyện tôi thuật lại nơi đây, đều là những chuyện có thật. Hy vọng kể lại để các bạn “thư giãn tâm hồn” (nói theo kiểu văn mới) sau những giờ phút mệt nhọc. Nếu mỗi người có một đóng góp, thì Đặc san mới còn. Như thế chúng ta phải chống nhóm chủ trương mạnh mẽ bằng bất cứ gía nào, vì nếu không chống, Hội ta và báo ta sẽ…sụp một cách đáng tiếc.

Những bài viết của tôi chỉ nằm trong thể tự thuật, nghĩ sao viết vậy. Tôi rất sợ viết thư và viết văn. Ở bậc tiểu học, mỗi lần làm luận là tôi là tôi tìm cách “cúp cua”. Câu nhập đề cổ điển vẫn là: …Nhà tôi có nuôi…Tuy vậy, vẫn có vài “thiên tài văn chưong” hơn tôi. Trong môt bài luận, với đề tài: “Em hãy viết một bức thư thăm Ba Má em”. Sau phần nhập đề, thông dụng như: “Kính thưa Ba Má, Đã lâu rồi, con không có thì giờ viết thư thăm Ba, Má, không biết Ba, Má có mạnh khỏe không? Riêng con vẫn thường luôn…”. Đến cuối thư anh ta văn vẻ môt câu rất đầy thưong mến:”…Cuối thư con kính chúc Ba, Má an giấc ngàn thu..”

Luật lệ về viết văn thì tôi được biết và học qua, khỏi phải hỏi. Nhập đề bằng lung khởi hay trực khởi? tức là tả từ xa đến gần hay trực tiếp vào đề. Điệp ngữ là những chữ lập lại như hàng hàng, lớp lớp, trùng trùng, điệp điệp vv…Biết thì biết như thế, nhưng phải có một tâm hồn văn thơ lai láng để lấp đầy trang giấy trắng đang nằm trước mặt. Tính tôi năng động, không thể nào ngồi hàng giờ, để viết. Nóng đít chết đi, chịu không nổi. Viết thì mất công cả tháng, thiên hạ đọc cái vèo là hết, chưa kể chỉ đọc lướt qua thôi. Mỗi câu văn, mỗi ý tưởng người viết phải đắn đo suy nghĩ, trân trọng từng chút, đọc sao cho xuôi vận, xuôi tai. Tôi nhân thấy, viết thì lâu, nhưng để lại một vết tích lâu dài cho hậu thế, nếu có tiêu diêu miền cực lạc hồi nào đi chăng nữa, nhưng tác phẩm, tên tuổi vẫn được nhắc nhớ đến. Nhạc sĩ thì cũng tương tự như văn sĩ, ca sĩ chỉ đựơc tán thưởng lúc hát xong, tạ từ cảm ơn rối rít, đến lúc bức màn nhung hạ xuống thì… ” Đời như hoa tàn úa, ai thèm mê say? Đời ca hát ngày tháng cho người mua vui…” Charlie Chaplin để lại một nhạc phẩm nhớ đời. Người ca sĩ chỉ để lại một dư âm trong chốc lát. Thính giả có hâm mộ tiếng hát đến đâu, đến đời con, cháu thì chẳng còn ai nhớ nữa, may chăng còn lại vài cái dĩa hát nhựa đời cũ, CD, DVD… đời mới, tùy theo kỹ thuật bảo tồn, nhưng không thể so sánh với những đại tác phẩm như của Victor Hugo, Tolstoi, Nguyễn Du… để đời. Có ai còn nhớ đến tên một tiếng hát mê ly, truyền…nhiễm của ca sĩ thời ấy?

Những tháng ngày còn ở Qui nhơn, tôi hay ra bãi biển nhìn ngắm những con sóng đập vào bờ, ngồi xem cả buổi, vẩn không dứt sóng. Hết lớp này, đến lớp khác, chúng chen nhau chạy vào bờ, rồi vỡ tan thành bọt nưóc, biến mất trên cát. Cả một cuôc bon chen, chẳng được cái giải gi? Hôm nay, càng ngày, càng gìa, tôi có cảm tưởng con sóng của tôi chỉ còn cách bờ vài thước và sẽ tan biến trên mặt cát, rồi cũng chẳng được caí giải gì!

Mỗi lần nhắc đến thời thơ ấu, ông bạn nào cũng thuật lại là học trò giỏi, hiền ngoan, thầy, cô thương hết mình…Tôi thì học dở ẹt! Dĩ vãng nào, nhắc lại đều vàng son cả, có ai kiểm chứng đâu được mà biết? Năm tiểu học, tôi học chẳng giống ai. Trong lớp có 45, 50 học sinh, lúc nào được xếp hạng 45, 46 là mừnh lắm!. Hì, hì! Còn hơn được 4, 5 mạng khác. Nhưng mấy con nhạn là đà này là những vị lớn hơn tôi cả chục tuổi, vì chiến tranh nên học trễ kiếm dăm ba chữ làm vốn trong cuộc đời còn dài đăng đẳng…Mấy ông bạn đồng môn đó, không những chỉ cắp sách đến trường mà thôi, còn phải gíup gia đình, cày ruộng, bán bánh mì “kím thim”…còn tôi, ăn không chỉ có học mà thôi, nhưng dốt ơi là dốt. Học dở là dốt, chẳng “on đơ ” gì cả. Tôi là thằng bé tò mò, thuộc loại cá hồi, bơi ngược dòng, ngay từ thời thơ ấu. Những gì cấm cản, thì tôi làm để xem tại sao lại cấm cản, những gì “không nên”…làm, thì tôi lại “nên”. Có một “tặc tử” trong nhà, bà cụ tôi đã điên đầu không ít vì tôi, nếu có ai phàn nàn gì về tôi là tôi lãnh đủ, không cần biết tôi phải hay trái. Vì mang tội học dốt nên tôi phải học nhiều hơn những bạn cùng tuổi khác. Khổ một nỗi, càng học, càng dốt thế mới tức.

Năm thi vào Đệ thất tôi rớt một cái đạch! Đáng lẽ số phận không có duyên với chữ nghĩa, thì ta vẫn phải đi tiếp…học trường tư. Nhưng bà cụ tôi buộc tôi học lại một năm lớp Nhất nữa cho nhuyễn…Ngồi lại lớp thì phải xin học dự thính tức là thầy cho ngồi trong lớp ôn lại chữ nghĩa nhưng bị tước quyền công dân, không có tên trong sổ bộ đời của trường, không được vinh danh mỗi tháng dưới trụ cờ nếu “chẳng may” được xếp hạng từ một đến ba, vì “chơi” tới hai lần, có ưu thế hơn những kẻ chỉ “mới lần đầu”. Nhưng “may” qúa, tôi không ngoi lên nổi đến hạng thứ ba mươi thì chẳng cần vinh danh làm cái quái gì! Nói tóm lại những chú cá không vượt được cửa Vũ môn thành “Rồng nhí” Cường để, thì thành dân học chui.

Tôi nhớ mãi thầy Nguyễn Dần ở góc đường Tăng bạt Hổ/Trần cao Vân. Dáng người thầy nho nhỏ, trên má có một nốt ruồi râu, như chồng của nàng Thị Kính. Luôn mở khóa dạy kèm thi Đệ thất mỗi độ Hè. Thầy dạy rất tận tâm. Tôi vẫn còn nhớ rõ bài dạy về động tử chạy cùng chiều và ngược chiều. Hai đông tử một ở A, một ở B. Khỏang cách 50 Km. Đông tử A khởi hành với vận tốc là 20 cây số một giờ. Đông tử B với vận tốc 15 cây số một giờ. Họ gặp nhau ở điểm C. Hỏi: Động tử A và B cách A và B bao nhiêu cây số? Toát mồ hôi! Nghĩ không ra đáp số. Thế mà phải đi thi mới chết! Môn Sử-ký như: Thời Vua Hồng Bàng, An Dương Vương đến Đinh, Lê (Tiền), Lý, Trần, Lê (Hậu Lê), Nguyễn. Môn Địa lý: Nước Việt nam hình cong chữ S. Bắc giáp Trung hoa, Vịnh Bắc phần, Biển Nam hải…. Diện tích 326.000 cây số vuông, ba phần tư là núi và rừng, dân số 36 triệu (thời đó), bờ biển dài 2.200 cây số… xem như tạm yên, Học đến hai lần, thì phải nhớ chứ. Oái ăm nhất là môn toán vì thời đó ai cũng quan niệm: giỏi toán tức là học giỏi! Những môn học khác, bị xếp vào “phụ”, tức là không cần lắm! Đi gần cuối cuộc đời, mới nhận thấy: cuộc đời chỉ cần vài cách tính căn bản, cộng trừ, nhân chia là đủ để tính lời lổ, thành công hay thất bại. Thành công trong cuộc sống là cần hiểu biết tổng quát, giao thiệp rộng rãi, phải có một linh tính bén nhạy trên thị trường, nếu là thương gia. Một trí nhớ tốt, nếu muốn thành Bác sĩ, Dược sĩ giỏi…một tâm hồn nhạy cảm, làm Luận hay nếu muốn trở thành Văn, Thi, Nghệ sĩ tăm tiếng vv… Đời thì muôn mặt, muôn kiểu, chả lẽ ai cũng phải giỏi toán mới thành công trong cuộc sống?. Ông bác học thời xa xưa Galieo Galilei đã phát biểu: “Toán học là chữ cái (Alphabet) mà Thượng-đế (God) đã dùng nó để viết nên thế giới!”. Dĩ nhiên tóan rất quan trọng trong cuộc sống, nó gíup ta nghĩ thuần lý (logic). Có nó, con người mới bay được lên cung trăng tìm chị Hằng xem thử có không? Nào có thấy gì đâu?, mới có vệ tinh thông tin để ta chỉ “bấm một cái” là thế giới tự nhiên nhỏ lại (TV, mobile phone, Internet vv…) nói chung Toán, Hóa học, Vật lý đóng một vai trò quan trọng trong cái thế giới đong, đo, cân, đếm này, nhưng không có nó, thì ta vẫn cứ dựa vào kinh nghiệm có từ ngàn đời mà sống. Khoa học phụng sự nhân loại, rồi Khoa học cũng sẽ hủy diệt nhân loại vì tàn phá môi sinh. Cái vòng càn khôn nó tròn vo hà!

Tôi trở lại về chuyện luyện thi…Thầy giảng giải trên bảng, tôi ngồi dưới này, thấy chữ nghĩa nó mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm, cứ phải chép lại thằng bạn ngồi bên cạnh. Học xong, đi về nhà, chẳng hiểu mô tê gì cả. Nhưng rồi lại phải lều chõng đi thi. Thời đó, thi khó lắm! Cả mấy trăm kẻ thi, mà chọn vào chỉ mấy chục. Đậu vào Đệ thất là được vào trường công, “học chùa”, khỏi tốn tiền bố mẹ, không đậu, thì cắp sách đi học trường tư, mất mỗi tháng vài trăm tiền học phí, con bị khinh dễ nữa. Học sinh trường công, có kỷ luật, học chăm, là chuỵện dễ hiểu rồi. Vì học dở, ở lại lớp thì bị mời ra, mất cái nồi cơm điện National thì không chết, cũng bị thương…hàn. Công bằng mà nhận xét, tôi thấy học sinh trường công “cù lần lửa” thấy bà! về mặc tình cảm. Gặp “người trong mộng” là á khẩu, theo kiểu “nhớ em nhiều, nhưng chẳng nói… không dám phát biểu ý kiến. Đi tà tà sau đít con người ta, để thấy “mùa xuân trứơc mặt, mà miên trường phía sau…” Còn học sinh trường tư thì…qúa cỡ thợ mộc, đã không ngoan, lại mất kỷ luật, chả sợ ai, nếu “được đuổi” trường này, thì ta đi trường khác, học phí trả ở đâu, cũng thế thôi! Nhưng bù lại, là những tài tử, lãng mạn trong…tình trường. Nam nữ học chung một lớp, đâu dễ á khẩu khi nói tiếng yêu, lúc nàng thốt:

– Biết rồi, khổ lắm nói mãi

Thì chàng lảm nhảm tiếp, cho nàng khổ thêm, mắt dày, mày dạn, chắc chắn phần thắng sẽ ngã về ta!

Tôi lại lạc đề nữa rồi…trở về chuyện thi Đệ thất. Kỷ niệm này, nhớ mãi không quên và cái không khí lúc đang thi cũng không thể nào mờ nhạt được. Tôi thi Đệ thất kỳ thứ hai ở truờng Nguyễn Huệ. Quanh trường, có hàng rào kẽm gai, Phụ huynh đứng lố nhố ngoài rào, tìm kíếm con em ngồi phòng nào? đề thi phát ra, có “nội tuyến” búng đề ra được chăng? cạnh đấy là những vị sư phạm lão thành, giải đề thi trong tích tắc, kím thim vài trăm trà nứơc, trước làm phước, sau làm tiền.

– N h i ê u…cũng được miễn sao cô hay cậu qúi tử đỗ được là nhẹ gánh sơn hà…

Tôi ngồi trong phòng thi, cạnh một tên cũng tên Khoa không Bùi mà là Nguyễn, chữ lót cũng giống nhau. Anh chàng này người Bắc, con một ông Trung hay Đại úy gì đó. Cùng học lớp nhất với nhau trường Mai Xuân Thưởng. Đề thi kỳ này: Động tử nghịch chiều! gặp nhau nơi nào, cách A bao xa? Trời đất qủi thần ơi! đồng chiều đã ná thở rồi, kỳ này lại đi nghịch chiều, sau không chịu đi cùng chiều cho vui? Có hiểu gì đâu mà giải với đáp! Tôi ngồi nhìn ra cửa sổ, thấy trời sao qúa ảm đạm, mặc dầu đang rất nắng…Bỗng dưng một tờ giấy nho nhỏ, bên trong là hòn đá từ phía hàng rào bay vào, rớt cái kịch! Gần chỗ tôi ngồi, không biết có phải đạn nào lạc đến tôi chăng? Tôi lón nhón lấy cái chân “khèo”. Cặp gìo thì ngắn, cặp mắt phải láo liên thăm chừng hai ông thầy đứng gác…Lúc hòn đá rơi xuống, gây tiếng đông, một ông thầy (ông này ở đâu đến, lạ hoắc, nếu thầy dạy ở Qui-nhơn, có thể nếu không như là mơ, thấy mãnh giấy có thể cứ làm ngơ lắm). đảo đến chỗ tôi ngồi, lúc này mãnh giấy đã nằm dưới chân. Cái thằng mắc dịch tên Khoa họ Nguyễn ấy lại điềm chỉ ông Thầy nhặt mãnh giấy lên, tịch thu Thế là xong! Đời tàn trong ngõ hẹp rồi! Tôi không hiểu nó làm công việc từ thiện đó để làm gì. Kết quả: Tôi lại rớt một cái ào! Bảng vàng hổng có tên…tui. Bị bà cụ đánh cho một trận thừa sống thiếu chết:

– Con cái gì mà ngu như bò, tốn kém tiền cho thầy dạy kèm mà chẳng chịu mở trí, chết cho rồi cái thứ báo đời…

Nhưng có gì đi nữa thì ” the show must go on!”. Tôi được về với Chúa ở Lasan, cho mấy ông “frère” săn sóc cho nên ngừơi. Ở đây, tôi gặp lại thằng K. họ Nguyễn cùng chung số phận. Sau một năm cho Tô võ chăn dê đã đời ở Lasan, tôi vào Đệ Lục Bồ đề học cho gần nhà. Học được nửa năm, gia đình thuyên chuyển ra Đà nẵng. Ở đây, trường tư thục Phan Thanh Giản, Thầy An dạy toán khám phá ra tôi bị cận thị nặng, khuyên bà cụ tôi mang tôi đi khám mắt. 3 độ cọng! Lần đầu tiên trong đời, tôi thấy kiến bò trên mặt đất. Thế giới chung quanh bỗng nhiên rực rỡ lên, cảnh vật đầy sự sống (vì tôi thấy được con ruồi bay qua). Được cặp kiếng, tôi học giỏi hẳn ra. Những gì Thầy viết trên bảng tôi có thể “trực tuyến” vào vở, ghi chép, khỏi cần phải ngoẻo đầu sao chép thằng bên cạnh. Từ đó tôi được vinh danh dưới cột cờ mỗi tháng, tôi thấy môn học gì cũng dễ, nếu chịu khó theo dõi thầy giáo giảng. Đôi mắt là cửa sổ của linh hồn! Cửa sổ của tôi bị đóng chặt qua đôi mắt mơ huyền…mờ! Đến bây giờ cửa sổ mở rồi, bao năm nay tôi làm kiếp “Hiệp sĩ mù nghe gío kiếm” đã chấm dứt, con chim đã sổ lồng, tôi bay…Cả suốt một cuộc đời tiểu học, tôi bị đòn ốm xương, tôi học dở, tôi bị rớt tơi bời hoa lá, cũng bởi tôi bị cận thị mà gia đình không biết. Tôi nghĩ đến số phận những kẻ cùng chung cảnh ngộ với tôi, chuyện gì đã và sẽ xảy ra? Mù không ra mù, chột, không ra chột. Cuộc đời nhìn với đôi mắt leo nheo, mờ mờ, tỏ tỏ, chẳng biết tại sao? Sau cuộc chiến chống Pháp, đất nước điêu tàn, dân chúng nghèo nàn, trình độ văn hoá thấp kém. Miếng ăn lo không đủ no, huống hồ nghĩ đến chữa trị tật mắt. Chữ tật mắt là chữ mới dùng sau này, chứ thời cha ông tôi, chả ai biết tật mắt là gì? “Đui, què, mẻ, sứt” Okay, thấy tần ngần ra trước mắt. Nhưng “cận thị “?. Trong sách Đông y, không thấy nói đến. Lúc nhỏ, nhờ uống calcium nhiều, tôi lớn như thổi. Đi học lại bị xếp ngồi cuối lớp, các bạn đừng hiểu lầm bây giờ tôi cao đến 2 m nhé. Lớn nhanh nhưng “gen đẹt” thì vẫ đẹt! Đến một tuổi nào đó, có bơm gì vào cũng…xẹp lép! Xui ở chỗ, lúc nhỏ cao không đúng chỗ. “Ăn theo thưở, ở theo thì” ông bà ta vẫn thường nói ấy mà. Ngồi tít cuối lớp, lại bị cận thị, học cái quái gì mà giỏi cho được. Làm cha mẹ nên để ý điểm này, chứ không “thằng cu Tí” bị đòn oan.

Về lại Qui Nhơn, tôi “bay băng” qua Đệ Ngũ, học thẳng lên Đệ tứ, bù đã bị mất hai năm lớp nhất, bay đến Tú tài một, không một chút khó khăn, bay vào Cường Để năm Đệ Nhất, bay đến Tú tài Hai thì bị đụng bức tường, té cái bịch!
Năm ấy, thi đợt đầu bạn nào học chăm, học giỏi, chỉ đậu được toòng ten, tức đậu thứ. Tôi lại phải dồi mài kinh sử để thi đợt hai. Tôi không hiểu chế độ giáo dục học đường thời ấy sao bắt học trò học nhiều như vậy. Tưổi thơ qua nhanh, cái tuổi chưa vướng bụi đời, chưa vướng bụi tình, mê đuổi bướm, hái hoa, nhưng thời gian đó lại hưởng rất ít ỏi. Hè về, mục đích là để các em nghỉ xả hơi vài tháng chuẩn bị cho năm học tới. Nhưng Hè về lại là mùa lớp luyện thi đủ mọi cấp mở ra tưng bừng. Không thi cũng luyện, có thi cũng luyện, luyện cho thật đều, luyện cho thật nhanh…rốt cuộc chẳng đạt được mục đích gì trong xã hội. Thi tiểu học là việc chẳng đặng đừng, biết đọc, biết viết, biết tính toán, để khỏi phải thay vì ký tên lại lăn dấu tay. Thi Trung học để đánh dấu có một học vấn cao hơn, cũng đồng ý đi. Nhưng phải thi Tú tài một là chuyện vô lý, có thể vì nước ta đang trong thời chiến, nên căn cứ vào bằng cấp để ấn định quân hàm? Có bằng Tiểu học? Binh đơ (binh nhì). Trung học? Đồng đế (Trung sĩ). Tú một? Chuẩn úy Thủ Đức. Tú hai? (Thiếu úy Đà lạt). Vào năm 1966 thì khỏi phải thi Trung học nữa, tôi không biết nếu đi lính được chức gì?. Hóa ra phải luyện chữ (không phải chưởng) thật nhiều để nhà nước trả lương.

Trở về đoạn cũ…Lúc tôi rớt Tú tài đợt một. “Người iu” đã đậu và đã đi vào Saigon, chắc nạp đơn học Y như lời hò hẹn trước khi thi, còn mình thì kẹt lại đây, số phận như canh bạc Tài-Xỉu. Nếu đậu, thì Tài, tương lai chào đón. Nếu rớt, không những Xỉu thôi, còn qụy, gục, ngã, mê man bất tỉnh…nữa. Vài tháng sau: “Anh đi chiến dịch” xa vời, nòng súng nhân đạo, cứu người lầm than…(Câu thơ này, cho đến nay tôi vẫn chưa hiểu nổi, chắc súng này bắn người không chết, loại súng nước, mới nhân đạo được), rồi tôi sẽ trở thành “sinh viên sĩ quan Thủ-đức” an phận với số mệnh “Anh tiền tuyến, em hậu phương”. Viễn ảnh coi bộ không khá nổi.

Một ngày, trước ngày thi, bà cụ tôi bắt tôi chở xe Honda lên Tuy phước xin bói quẻ, cầu đồng. Tôi thì chẳng tin những chuyện ma ám, qủi bắt, cầu tự, cầu cơ…Nhưng vì bị rớt rồi, thôi chịu khó chở bà cụ đi cho yên cửa, yên nhà. Đường đi Tuy phước, cũng chẳng xa gì, tôi nhớ là dọc trên đường đi đến Tuy phước, thì bà cụ tôi bắt ngừng trước một cái am nhỏ, vừa đủ chứa 6, 7 người. Chúng tôi bước vào, lúc ấy là trời đang đúng Ngọ (giờ hoàng đạo?). Trong am, lối bày biện đơn sơ thôi, có một cái bục nhỏ, bục thì không đúng lắm, một cái nấc xi-măng cao cao hơn nền nhà một chút thì đúng hơn. Hai bên là hai cái cột sơn đỏ, chạm hay vẽ chữ Hán. Một người đàn bà hơi quê mùa, tuổi trạc khỏang gần 40 mươi hay trẻ hơn? Tôi không đoán nổi, vì lúc đó ai lớn hơn tôi hơn mười tuổi là bà gía đối với tôi rồi. Đứng sau và cạnh bà còn hai người đàn bà khác, để phụ việc. Trong phòng còn 4 hay 5 người khác, chắc là khách cầu của “xuất” rồi? Bà ta hỏi bà cụ tôi muốn cầu hỏi chuyện gì? Bà cụ tôi đáp:

– Thằng con tui sắp thi, nhờ cô xem dùm một qủe ra sao?

Bà ta hỏi tôi tuổi con gì, sinh năm nào vv…Sau đó bà ta đọc một tràng bài thần chú nào đó, đầu óc tôi lúc ấy đang nghĩ đến một bài tả về cầu đồng của Khái Hưng. Tôi nhận xét khung cảnh chung quanh với một sự so sánh và tò mò, trong lòng tỉm cười một mình, chờ đợi diễn biến Đọc thần chú một hồi, bỗng nhiên tôi nhận thấy giọng nói của bà bóng đổi khác lạ, mặt mũi bà đỏ lên, đôi mắt lim nhim lạc thần. Bà ta bắt đầu ợ, ợ , tứ chi giật giật, tuy không tin, nhưng tôi cũng nơm nớp lo sợ. Chỉ khoảng vài ba phút thì được hay bị Bà nhập (tại sao Ông không nhập nhỉ, sướng chết mồ). Bà ta trở thành một nhân vật mới, không còn là một mụ nhà quê nữa mà là một Bà trí thức, văn chương một bụng. Tôi bắt đầu lo. Bà cụ tôi hỏi:

– Kỳ này nó thi có đậu không?

Thay vì trả lời bà ta bảo tôi xốc ống xăm. Tôi xốc, lắc lắc một lúc, quả thật một cộng xăm rơi ra

Bà cụ tôi hỏi tiếp:

– Tương lai nó về sau như thế nào?

Tôi lại xốc! vài câu hỏi nữa, nhưng tôi lại lẩm cẩm quên mất rồi. Chỉ chắc chắn một điều là câu hỏi về tình duyên, gia đạo – không có!

Bà đồng trả lời những câu hỏi bà cụ tôi bằng một thể văn lục bát, cách dùng chữ và lối diễn tả nghe hay như thơ của bà Huyện Thanh Quan hay Đòan Thị Điểm sáng tác. Bà Đồng này sáng tác tại chỗ. Tôi không biết bà ta có học qua khóa đóng phim nào không (theo tôi thì khômg) nhưng lối diễn tả đáng được giải Oscar. Đại ý tôi nhớ được vài điểm tôi cho là quan trọng như sau:

– Bà ta ngâm rằng: Tôi là con của một ông tướng ba mắt ở trên trời, tôi nghĩ ngay đến Dương Tiễn. Đúng ông ấy rồi! Hơi mừng thầm là được làm con tướng thật chứ không phải tướng …cướp.

– Số tôi sẽ mạng yểu, phải về trời một thời gian gần, nhưng bà cụ tôi có thể xin hoãn lại bằng cách mỗi tối phải thắp nhang lạy bốn phương, tám hướng. Nghe xong, rầu thúi ruột

– Mắt tôi sẽ tinh anh như sao trời, nghe đến đây tôi không thể tin được, vì đang mang kiến cận cả trên 4 độ, làm sao mà mắt sáng như sao…chổi được. Nhưng giờ này tôi đã nghiệm ra câu trả lời rồi. Bỏ ra 1,500 đô, đi mỗ mắt thì sáng như sao. Bà này nói linh thật!

– Tôi sẽ đỗ cao, nhưng làm bài phải dấu không cho người bên cạnh cóp, mới được.

Sau khoảng một tiếng, thì bà mệt rồi, bà thăng! Bà ngồi đồng, ú ớ một lúc, rồi trở lại trạng thái bình thường. Tôi đi từ ngạc nhiên này, đến ngạc nhiên khác…Trong lòng đã bắt đầu (hơi) tin. Sau buổi cầu này, bà ta hốt cho tôi bốn lá bùa, kích thứơc dài, rông như thước dây,viết bằng chữ Hán, giấy mong mỏng như giấy đi cầu bên này chắc cho dễ nuốt, chứ làm bằng giấy carton, chắc giờ này tui đã qui tiên lâu rồi. Bà ta căn dặn: Buổi tối trước khi thi, phải nuốt một lá bùa, chú ý bắt đầu từ khúc đầu trứơc, rồi nuốt từ từ theo thứ tự xuống như dâng sớ vậy, xong uống một ngụm nước. Trước khi thi cũng phải nuốt một lá nữa, vì thi hai ngày, nên ngày thứ cứ như thế mà làm. Còn lá bùa sau cùng thì mang trong người để qưới nhân bảo vệ. Tôi riu ríu theo lời chỉ dạy. Ngày đầu, trước khi vào phòng thi, tôi nuốt một lá. Làm bài tôi che lại một cánh cẩn thận, thằng bạn thi ngồi bên cạnh, không tài nào cóp đựơc. Á, lúc đó tôi thi ở trường Nữ. Làm bài ngon lành, không gặp khó khăn gì mấy, tôi còn quẳng giấy yểm trợ thằng Hiếu ngồi sau lưng tôi, cứu bồ!. Vần K có Khoa, Khang, Khôi, Khương…rồi đến vần H, Hiếu, Hảo, Hiền, Hùng…Tôi che không cho thằng bên cạnh “cóp”, thi hành đúng chỉ thị của Bà, nhưng Bà không cấm tôi họat động phía sau lưng. Tôi nhờ rõ năm tôi thi Tú hai, đợt hai là năm phi thuyền Apollo 8 đổ bộ mặt trăng, vì bài thi Anh ngữ được trích ra từ một tờ báo Mỹ nào đó. Ngày thứ hai, trong lòng thấy “phẻ phắn” lắm, vì ngày đầu làm được bài. Tôi hiên ngang ngồi chờ giám thị phát bài, ông ta phát hết bàn thứ nhất, bắt đầu hàng thứ hai. Thì…Ôi cha mẹ ơi! Lá bùa! Chưa nuốt! Tôi vội xin giám thị ra đi…ngoài, chạy xuống nhà ông Cai, trước nhà có cái giếng nước. Phòng thi cách nhà ông Cai khá xa, cái hành lan dài diệu vợi, chạy mãi cảm thấy vẫn chưa đến nơi, nhưng rồi cũng đến thôi. Tôi xách cái gàu, quăng, chứ không thả xuống giếng cái bủm, làm vài sải kéo lên. Lần tay vào t úi móc bùa ra…Đâu rồi? chỗ nào đầu chỗ cuối? Đây rồi, chưa lần nào cái lưỡi tôi nó lại họat động nhanh nhẹn đến thế. Làm xong công việc, nốc một hơi nứơc giếng, xong ba chân bốn cẳng chạy như bay về phòng thi, lúc đó đề thi cũng vừa phát đến hàng cuối cùng. Mệt thở ra khói, nhưng kịp giờ.

Trong lúc chờ đợi kết quả, tôi biết chắc chắn mình sẽ đậu nhưng cao hay thấp mà thôi. Ở nhà lo bàn tính trước có nên cho đi du học hay không. Muốn hội đủ điều kiện đi du học, phải đậu từ Bình thứ trở lên, du học thì tự túc, nghĩa là tự trả hết mọi thứ, khác với du sinh nhận học bỗng. Chính phủ miền Nam đã dời một số tuổi trẻ sang một bên, để khỏi phải nướng hết thế hệ trẻ trong chiến cuộc. Một thành kiến (hay ác kiến) của những người ở lại cho rằng: chỉ có con nhà giàu, con ông cháu cha mới được đi du học. Ý nghĩ này, có thể do ganh tị mà ra. Riêng tôi và rất nhiều người bạn khác khẳng định, nhà chúng tôi không giàu, Bố mẹ dành dụm một ít tiền của để mua tấm vé máy bay như mua một sự sống và tương lai cho con em. Tiền ăn học gửi hàng tháng, chỉ sau một, hai năm thì chấm dứt, gia đình không kham nổi nữa. Chúng tôi, du học sinh lâm vào hòan cảnh “đem con bỏ chợ”, phải tự lực cánh sinh mà sống ở lứa tuổi 19,20. Xin trợ cấp xã hội thì không ai cho, vì sang đây với diện du học tự túc chứ không phải đất nước họ thu nhận chúng tôi vì một lý do chính trị, hay nhân đạo nào. Mỗi năm phải xin gia hạn visa và đem trương mục tiết kiệm, hay một bằng chứng nào khác, chứng thật chúng tôi có đủ tiền để ăn và học, không thì “a lê hấp” mời ngài về! Trong trương mục chúng tôi chỉ lơ thơ vài trăm Đức mã, đủ để sống hai tuần, như thế đến ngày trình diện trương mục làm sao? Chúng tôi “gom”chung lại tất cả, trả vào trương mục cho đương sự đang bị hỏi, xong lấy ra, cứ thế bổn cũ sọan lại, thay phiên nhau, thì thoát được cái nạn kiểm tra tài chính của Sở ngoại kiều.

Hầu hết tất cả sinh viên du học phải vừa đi học vừa đi làm. Chúng tôi được phép “đi làm Hè” Làm ba tháng, sống được một năm. Nhiều anh em bạn khác có người bị thất chí, có người tuyệt vọng…bỏ ngang con đường học vấn. Riêng tôi nhờ có cặp mắt kiếng nên không trể nãi nhiều cho đến lúc ra trường. Câu ca dao ngày nào , tôi vẫn còn nhớ kỹ:

Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắc lẻo, ghập ghềnh khó đi
Khó đi, mẹ dẫn con đi
Con thi trường học, mẹ thi trường đời

Trường đời tôi đi đã gần hết còn trường gì nữa để tôi học trong tương lai?

Tây-Đức 2008-04-08

Bùi Đăng Khoa
  

   Số lần đọc: 2831

1 BÌNH LUẬN

  1. RE: Một thời cắp sách…
    Tội nghiệp,vì bị cận thị mà gia đình không biết,nên học không được,biến thành dốt….
    &phải bị nuốt 2 lá bùa nữa!kể ra cũng có nhiều điều ly kỳ trong quá trình cắp sách quá!đúng là những kỷ niệm khó quên…
    Bài viết rất hay& dí dỏm làm cho người đọc cảm thấy vui! Cám ơn Đăng Khoa!

BÌNH LUẬN

Vui lòng viết bình luận của bạn
Vui lòng điền tên của bạn ở đây

Bài Cùng Tác Giả