Trang sinh hoạt của Cựu Giáo Sư và Học Sinh trường Trung Học Cường Đễ Qui Nhơn

Trang NhàĐoản VănBùi Đăng KhoaQui Nhơn Trong Ký Ức...

Qui Nhơn Trong Ký Ức…

Một ngàn sợi tóc bay bay
Để đời một nửa có hay không đời?.
..

Thấm thoát đã trên ba chục năm trôi qua, từ ngày tôi từ giã thành phố Qui Nhơn ra đi. Hai phần ba cuộc đời, sống bôn ba nơi hải ngoại. Rồi một hôm:

“..Tình cờ đất khách gặp nhau. Mấy cái đầu đều bạc, nếu chẳng quen lung, đố có nhìn ra được…”

Xa quê hương lúc mới trưởng thành, ôm ấp kỷ niệm mà đi. Người cũ, cảnh xưa vẫn ngự trị trong lòng, cứ tưởng thời gian như đứng im, lắng đọng lại, cứ tưởng gặp lại cố nhân vẫn như ngày nào… Lưu Thần, Nguyễn Triệu ngày xưa gặp tiên về lại trần thế, chắc cũng nghĩ như tôi? Thật là ảo mộng! Mọi sự vật trên đời đều biến đổi theo thời gian, cả bản chất con người, nếu để ngoại cảnh chi phối. Biết thế, nhưng vẫn ngoan cố không chịu tin. Tôi tự hỏi:

– Tâm hồn có gìa đi theo thời gian hay không nhỉ?

Những tâm hồn lãng mạn hay trung thực chỉ nói lên tính chất chứ không nói đến thời gian.

Gặp lại người quen cũ, sao tôi thấy ai cũng “lão” hết rồi. Soi gương lại mới giật mình:

– Ủa, mỉnh cũng “hơi” già rồi!

Cái tấm thân tứ đại nảy, nuôi nấng nó cẩn thận, có làm gì nó đâu? mà “tự nhiên nó sa sút” với tháng ngày. Đầu gối, leo thang lầu, “hơi” nhức!. Cái lưng bỗng nhiên nó “hơi” đau. Mắt phải cần kiếng lão, mới đọc được chữ…Tôi chợt nhớ đến câu trong một bài học thuộc lòng thưở nhỏ :

…Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau…

(Chợ Tết – Đoàn Văn Cù)

Nước thời gian không những gội chỉ tóc thôi, mà gội rửa biến đổi tất cả, tại sao mình cứ cảm thấy vẫn “còn tửng tửng” như độ nào vậy cà? Đã đến lúc “xin thời gian ngừng lại”, khác hẳn lúc xưa “Xin thời gian qua mau” rồi. Lúc nhỏ muốn lớn thật nhanh để được tham dự những cuộc nói chuyện của nguời lớn, chứ không, bị đuổi xuống bếp hoài:

– Con nít đi chỗ khác chơi, để người lớn nói chuyện!

Mấy anh, mấy chị lớn hơn năm, ba tuổi trông sợ như thần, phận đàn em không dám qua mặt. Lúc dậy thì, mong chóng trưởng thành để dược nói, bàn chuyện người lớn cho hợp pháp.

Từ 20 tuổi trở đi đến 40, cảm thấy không bao giờ già được, mảy may không một ý nghĩ đến chuyện sẽ gìa. Đời tươi như hoa hàm tiếu, cứ việc sống cái đã, làm sao mình gìa được? Nhìn những người có tuổi, cảm thấy thương hại. đâu nghĩ họ cũng đã từng một thời “nghiêng thùng, đổ nước”!

– Hồi bà Ngoại mấy còn trẻ, cũng đẹp lắm, bao nhiêu trai tráng trong làng mê bả lăn chiêng đổ đèn…

– Biết rồi, khổ lắm nói mãi. Lúc còn trẻ là hồi xa xưa lắm rồi, bây giờ thấy bả gìa khằn không còn một cái răng ăn trầu. Kể chuyện xa xưa nghe phát chán!

Không cùng tần số, khó thông cảm.

Dần dần, khoảng cách tuổi tác bắt đầu từ 40 trở đi, thấy nó “thun” lại, càng gìa, ranh giới tuổi càng thu nhỏ. Bạn bè cùng lứa chẳng còn ai nữa. Ông 70 tuổi có bạn 60 tuổi mừng hết lớn, gọi là bạn vong niên…

Mấy người già hay nhắc lại chuyện ngày xưa. Những dữ kiện thời còn thơ ấu nhớ rất rõ, việc xảy ra cách đôi ba ngày, vài tuần nhớ không nổi. Bây giờ trở thành hội viên “Hội cao niên” rồi, mới bắt đầu thấm thía cuộc đời. Dĩ vãng, hiện tại và tương lai, ba giai đoạn đời người. Hiện tại thì như… từng bước từng bước thầm, sống ngày này, chờ ngày mai có gì xảy đến? Tương lai? Sẽ nằm trong lòng đất lạnh, chẳng ham ! Chỉ còn dĩ vãng là niềm an ủi đẹp nhất. Thôi nhớ về dĩ vãng vậy. Ký ức! ngự trị mãi trong tâm hồn, đến lúc chia tay lìa đời. Có lẽ mình đang ở tuổi hồi xuân.

Tôi sinh ra và lớn lên trong thành phố Qui Nhơn nhỏ bé nhưng chất chứa đầy kỷ niệm cuả tuổi thơ, tuổi học trò. Thành phố Qui Nhơn như nằm trong cái rọ. Bốn huớng Đông, Tây, Nam, Bắc như bốn bức tường thiên nhiên bao chụp lại. Hướng Đông là biển, hướng Tây là núi, hướng Nam là núi, hướng Bắc là cái đầm Thị Nại. Chỉ một con đường độc đạo, nơi có cái núi lở hay còn gọi là núi Bà Hỏa, là con đường huyết mạch duy nhất ra khỏi Qui Nhơn. Vào Nam, ra Bắc hay lên Cao nguyên, mọi người hết thẩy đều phải “chun” qua cái ải này, ra đến ngã ba Phú Tài mới tha hồ bay lượn…Một đặc điểm của Qui Nhơn nữa là buổi tối đến rất nhanh, mới lờ mờ hoàng hôn đó, chỉ trong một thời gian ngắn, trời đã sụp tối. Nguyên nhân bời cái núi Bà Hỏa. Mặt trời lặn về phía núi này, ngày chưa kịp bàn giao hoàng hôn, bị núi cản, màn đêm đã phủ xuống thành phố. Củng nơi cái núi lở này, trong những năm học tiểu học, tôi đã bao lần cùng mấy thằng bạn tay xách sô, tay cầm lon sữa bò đi đào lấy đất sét cho những giờ thủ công ở trường để nặn những con thú tùy đề tài được Thầy cho hay nặn tự do theo óc tưởng tượng. Không biết sau này có ai thành những điêu khắc gia hay không? Tìm được đất sét xong, chúng tôi rủ nhau leo núi. Cái ước mơ cũa tôi là muốn bắt được áng mây trời đang lửng lơ nơi lưng núi. Núi trọc nên cũng dễ leo. Leo được đến nơi, rờ được mây rồi nhưng sao tôi chẳng có được cái cảm giác như đang giữ trong tay một mớ bông hay một “mớ tơ trời” mà tôi đã được đọc qua sách báo, mấy ông văn sĩ diễn tả, chỉ thấy mình như đang ở trong một môi trường mù sương, ướt át. Tuy thế, tôi cẩn thận mở cái hộp thiếc bích qui ra, hốt mây vào, đậy nắp lại, mang về nhà cất giữ, rồi thất vọng khi thấy trong hộp trống không… Để mộng tuổi nhỏ của tôi cũng tan tác theo mây !

Nhắm mắt, tôi có thể vẽ lại rõ ràng từng con đường nhỏ, từng con lộ chính của thành phố. Phố Qui Nhơn ít thấy màu xanh cung cấp dưỡng khí của những hàng cây xanh lá. Con đường Gia Long, đi từ nhà thương Thánh Gia lên đến bến xe chỉ thấy hơi của mặt nhựa đường bốc cái nóng lên hanh mặt. Hai cây bàng, một ở trước chùa Bà, đường Bạch Đằng và một ở góc đường Trần Cao Vân/Gia Long cạnh chùa Ông, đứng “trơ gan cùng tuế nguyệt” bố thí được chút bóng mát chống cái nóng của ngày. Con đường Phan Bội Châu lơ thơ vài cây thông già, dân Qui Nhơn gọi là cây thông chứ thật ra là Dương liễu, rải rác đến chỗ rẽ sang đường Võ Tánh là..đứt phim. Thiên đường bóng mát chỉ có trong sân trường Cường-Để cũ với cả “rừng” cây Me tây (hay còn gọi là Điệp tây) do người Pháp trồng từ mấy mươi đời vương về trước. Đến mùa, me rụng tơi bời quanh sân, Không biết trái me tây xử dụng vào việc gì hay chỉ trồng cây để có bóng mát thôi?. Trái me tây trông từa tựa như trái Phượng, nhưng ngắn, nhỏ hơn, vỏ màu nâu đen, bên trong có “thịt” màu vàng, mới ăn có vị ngọt, ăn nhiều không được, hơi đắng, nên chẳng ai ăn. Sau này đi Bắc Phi, Algeria thấy người ta trồng cả rừng, mới biết loại trái này có nhiều vitamine E, được ép để lấy dầu, làm Vanile chocolate, chế biến thức ăn cho ngựa…Còn ở sân trường Cường Để cũ, chỉ cho nó rơi rụng với tháng ngày…Sân Cường Để cũ ngày nay không còn nữa, cây bị đốn để cán bộ cất nhà, thiên đường bóng mát đã biến mất, thành phố mất đi người tình lá xanh.

Tản bộ theo đường Võ Tánh ra đến biển, đường Nguyễn Huệ chỉ có lơ thơ vài cây phượng đỏ, vài hàng bông giấy không đáng kể. Từ phi trường Qui Nhơn cũ rẽ qua khu Sáu tình trạng thảo mộc chẳng mấy khác cũng… “lơ thơ dưới núi tiều vài chú”…Điều đó cũng chẳng lạ vì Qui Nhơn thời xưa chỉ là một eo biển nhỏ đầy cát và xương rồng. Những cây cần đất, chỉ thấy mọc từ Đầm Thị Nại đến khúc đường Tăng Bạt Hổ là hết. Từ Tăng Bạt Hổ ra hướng biển không có cây to, bóng mát nào sống nổi. Dương liễu, dừa, phượng là những loại cây có thể sống trên cát được.

Ngoài những rặng dương liễu ở đường Nguyễn Huệ trước trường Nữ, bàng, me tây, tôi còn nhớ ở Qui Nhơn có cây “rục rạc” hay sục sạc ? Không biết tiếng khoa học gọi là gì nhưng người ta gọi là cây rục rạc. Khắp thành phố, tôi thấy độc nhất chỉ có hai cây mọc đối diện nhau như tình cây duyên lá trước rạp hát Cọng Hòa. Cây có vỏ sù sì. Bóc ra, bên trong có màu đỏ, mỗi lần nở hoa như lông màu vàng hoặc hồng, cây tiết ra một mùi hương thơm ngào ngạt, quyến rủ, nhất là về đêm, ngửi muốn nhức đầu. Trái có hình thể như trái cuả cây phượng, nhưng ngắn và vỏ mỏng hơn. Bên trong có hột, lúc chín. máu vàng nhạt. Mỗi lần gío thổi làm những trái chín chạm vào nhau xào xạc, phát ra âm thanh như cái rục rạc…nên được gọi là cây rục rạc?

Dọc đường Trần Cao Vân đi về hướng biển thì gặp đường Tăng Bạt Hổ. Bên trái của đường, tôi nhớ lúc xưa có cái “nhà lao” (nhà tù) mái ngói đỏ, chỉ mỗi một phòng thật to để giam giữ tù nhân. Tôi không biết tù nhân là ai? Là những hạng người gì ? tù chính trị hay tội phạm? Dân hay gọi là mấy “ông phạm”. Sau này, khoảng năm 65-66 nhà lao bị phá đi, viện trẻ em mồ côi do sư cô Hạnh Thông thành lập được xây lại. Một cái bờ thành bằng đá ong chỉ cao khỏang nửa thước, dùng làm móng cho những cột rào kẽm gai, kéo dài từ đường Tăng Bạt Hổ cho đến Ty Điền Địa, góc đường Phan Bội Châu/Trần Cao Vân. Những bụi “hoa bốn mùa”, còn gọi là cây ngũ sắc hay trâm ổi ? dại mọc đầy. Loại hoa bốn mùa này, có lá nham nhám, hoa có năm màu, nên được gọi là ngũ sắc chăng?. Trái nó mọc tròn thành từng chùm trên cuống. Lúc chín, trái màu đen, lúc xanh thì…vẫn xanh. Lâu lâu bọn tôi hay đi “lùng” tìm mấy trái chín “ăn tráng miệng” đỡ thèm, mấy trái xanh chưa chín được “nhét” vào cái vỏ của cây bút chì nguyên tử Bic, trước một cái, sau một cái, rồi dùng chiếc đủa “thọc” tới. Lúc “đạn” ra khỏi nòng, kêu một cái “bụp”. Chia phe bắn kiểu này, rất được ưa chuộng, nhưng chơi phải xem chừng, lỡ bắn trúng mắt địch thủ, mình cũng bị “lãnh đạn” đủ ở nhà.

Bên phải đường là chùa Phật Học và Long Khánh, trong sân có những cây thật cao, không biết là cây gì, sau này mới biết là những cây mù u. Quanh chùa có những hàng keo, Từ Trần Cao Vân cho đến Tăng Bạt Hổ. Thân keo có gai, muốn leo lên hái trái, cũng phải “trầy vi tróc vảy” mới được. Dân Qui Nhơn gọi cây keo là cây keo chứ không gọi là me keo như ở trong Nam ! Me là Me còn Keo là Keo chứ đâu có chuyện chua, chát giao duyên lộn xà bần nầy được. Trái keo chưa chín ăn hơi chát, lúc chín, vỏ bắt đầu “hườm hườm” cho đến đỏ thì có vị ngọt. Đi đường, thấy keo chín là vội về nhà tìm giạt giường (bằng tre) làm cái “khèo lèo” để móc nó xuống. Mấy chùm keo chín ác độc thật, nó tòn ten tít trên cao, cái khèo lèo dài thì yếu, đong đưa trước gió, “khèo” gần được rồi lại bị gío thổi ra xa…Nhìn theo “canh” nó,muốn gãy “cái càng cổ”. Keo chín lại có mấy con sâu nằm bên trong, không biết của mấy ông côn trùng loại nào mà cũng khoái ăn keo như bọn tôi? Đặc biệt trên mấy cây keo, có một loại bọ, gọi là “con quít” khá lớn, màu xanh óng ánh, cánh có những chấm đủ màu thật đẹp, bẵng đi không thấy nó xuất hiện nữa, chắc tuyệt giống rồi.

Mỗi lần có cơn mưa rào, chuồn chuồn bốn cánh bay đầy đường, lũ trẻ cầm vợt vũ cầu chạy theo đập cho nó chết chơi ! Nói về chuồn chuồn, tôi nhớ một kỷ niệm.Tôi được mấy anh lớn bày vẽ :

– Mày bắt con chuồn chuồn voi, để nó cắn lỗ rún sẽ biết bơi.

Dân ở biển, ai lại không thích biết bơi khỏi phải học? Tôi vội làm ngay lời chỉ dẫn vàng ngọc này. Để con chuồn chuồn voi trên lỗ rún, cho nó cắn, nhìn cái miệng nó với hai cái càng, nghiền qua nghiền lại, thấy phát ớn rồi! Đau ơi là đau ! Nhưng muốn biết bơi, phải ráng chịu đựng. Vài tiếng đồng hồ sau, cái rún nó sưng lên bằng hột mít. Sau vài ba ngày, chờ cho xẹp bớt, vội vàng “chạy ù một mạch”, nhảy ào xuống biển, Bơi ! Ai ngờ, uống nước đã đời mà “nó” không chịu bơi gì hết. Sau này mới biết là bị trác ! Tức muốn chết đi được ! Lại phải bơi chó, lủm chủm tiếp…

Qui Nhơn được chia ra làm sáu khu phố. Khu một : ở tận mãi bến Càng. Khu Hai : vùng sát mé biển. đường Nguyễn Huệ, xóm chài. Khu Ba : Là trung tâm thành phố. Khu tư : hay còn gọi là Xuân Qươn, vùng trường La San, Kỹ Thuật, Gành Ráng. Khu Năm: Hưng Thạnh, vùng có cái núi lở, . Khu Sáu :Từ phi trường cũ kéo dài đến phía núi.

Tôi ở khu phố ba, đường Trần Cao Vân, “xóm Cộng-Hòa” vì đối xéo xéo trước mặt nhà là cái rạp hát Cọng hòa. Không biết rạp được xây từ lúc nào? lúc gia đình tôi dọn về khoảng 55-56 (lúc Qui Nhơn mới tiếp thu), nó đã đứng sẵn đó rồi. Rạp không lớn mấy, mái nhà được lợp tôn, mỗi lần có trình diễn, trời nóng, mồ hôi nhỏ giọt đầm đìa, bà con tha hồ phe phẩy chiếc quạt giấy màu hồng không ngơi tay. Mặt tiền của rạp thụt sâu vào trong, để có chỗ cho khách quan đứng chờ vào cửa. Tội nghiêp cái bức tường, nơi đó, lúc nào không có đoàn hát trình diển, lũ trẻ bọn tôi dùng nó để chơi trò đập tiền. Tên nào đập tiền ra xa nhất, nhưng không đưọc phép vươt qua đường lằn đã vạch sẵn, có quyền chọi những đồng nằm thấp hơn. Chọi trúng thì ăn. Đồng bạc cắc với hình Ngô Tổng Thống bị bọn tôi đập đến cong mặt, nhưng Tổng Thống vẫn không hề hấn gì, chỉ tội bức tường bị loang lỗ như bị rỗ mặt. Những lúc hết tiền, bọn tôi rủ nhau tạt bao thuốc. Bao Ruby được tính 50$, bao Salem 100$, bao Pall Mall 60$, Basto xanh 10$. Melia vàng 20$…tùy gía thị trường hối đoái tự đặt ra. Những bao thuốc nằm lăn lóc bên vỉa đường, trong quán ăn…được bọn tôi gom góp mang về, xếp lại thành hình tam giác, lúc đó mới có giá trị mang ra lưu hành. Muốn chơi, mỗi đứa phải đóng vào một số tiền cọc, tất cả được đặt vào hình tam giác đã được vẽ sẵn. Xong phải thi xem ai được tạt đầu tiên bằng cách ném “cục gạch mạng” của mình đến đường lằn đã vạch, ai gần lằn mức nhất thì được thảy đầu tiên từ lằn mức này, cố gắng tạt được nhiều tiền ra khỏi tam gíac thì được thu tiền và được tạt tiếp cho đến lúc tiền nằm trong tam giác hết thì thôi. Tôi trở thành triệu phú sau mấy tuần làm ăn khổ cực. Tiền bao thuốc trở nên khó kiếm trên thị trường rác công cộng (Bao thuốc bị tôi tóm hết rồi) cho những kẻ bị thua. Nhưng sau đó tôi bị khánh tận chỉ trong dăm phút vì bà cụ tôi khám phá tôi tích trữ rác bao thuốc qúa nhiều, bắt đem đi đốt. Than ôi, cuộc thế phù dung, giàu, nghèo không mấy chốc !

Hết mùa tạt bao thuốc, thì lại có trò chơi “Cõng, Chọi”. Mỗi đứa sắm một cục gạch, hay một cục đá bằng phẳng, cố gắng chọi cho trúng cục gạch của địch thủ, nếu chọi trúng thì mình được cưỡi trên mình địch thủ, ngược lại phải làm ngựa cõng địch thủ. Kẻ ngồi trên, ném một cục gạch ra xa Xong hỏi “con ngựa” mình đang cưỡi :

– Mày hay tao ?

Tức là mày muốn chọi trúng cục gạch hay để tao chọi. Nếu mày chọi trúng thì kiếp làm ngựa được chấm dứt, còn tao chọi trúng thì mày phài cõng tao đi nhặt lại hai cục gạch và cứ thế tiếp tục cho đến lúc ngựa mệt qúa hất chủ xuống, nghỉ chơi…Xù!

Rạp Cọng Hòa ngày nay không còn nữa, những trò chơi tuổi nhỏ chỉ bằng những phương tiện đơn giản nhất cùng với óc tưởng tượng cũng đã chìm trong quên lãng. Không biết tuổi thơ bây giờ có còn tiếp tục? Hay chỉ ngồi trước máy TV xem phim chưởng và computer chơi với Playstation?

Dân Qui Nhơn là dân tứ xứ đổ về. Nhiều nhất người Huế, đến người Bắc, người Quảng, dân miền Nam rất ít. Tìm vài người… làm giống,cũng khó kiếm. Miền Nam trù phú, có ổi xá lị to bằng trái cam, có xoài tượng bằng bắp chân so với cái ổi Qui Nhơn chỉ bằng cái mận, lại nhiều hột, xoài Sica tuy ngọt nhưng nhỏ, tôm cá, cua, trái cây dư thừa, chẳng ai màng về sống ở cái nơi “khô cằn sỏi đá” này làm gì ? Giọng nói Qui Nhơn có nét đặc thù riêng có lẽ bởi pha trộn nhiều thứ tiếng, không giống tiếng Bình Định hẳn. Bình Định rộng lớn bao gồm các địa phương như An Khê, Gò Bồi, Phù Mỹ …nên rất kỳ lạ ! ở cùng một thành phố mà giọng nói ở mỗi khu mỗi khác. “Giọng người thành phố” tức là bà con ở phạm vi khu Ba thì nói “không nẩu” lắm, nhưng thỉnh thoảng lại “ngọng” chữ oa :

– Thon thỏan mùi hương, lòng tôi thấy khon khói

Đi lần xuống Hải cảng, giọng dân khu một nói một cách khác, tôi cho là “giọng nhà quê” :

” Con cò mà đi ăn “đim” (đêm)
Đậu phải cành “mìm” (mềm), lộn cổ xuống ao “

– Dẫy na, nó phải đi ăn đim, “kím thim” (kiếm thêm) chớ bộ.

Giọng Gò bồi :

– Anh bộ đậu, đậu cái mũ cấu, ảnh đi, mỏi cái đầu gấu, ảnh ngầu ành nghỉ, rầu ba hầu, ảnh kể chiện này, bốn hầu ảnh kể chiện khác, nghe muốn nhức đầu… “

– Nói thằng Pha (Khoa) mai lấy cái “xe đòn dông” đạp, chở con Tha (Thoa) đi hầu Tà (Tòa).

– Trời “trưa trồng bóng” mà nó mang cái “đầu dông” (đầu trần) nó đi, biểu sao mà không say nắng cho được ! “.

Giọng An khê :

– Nói “dẩy” nghe sao được nà, tháp Bánh ít, đứng “sít” cầu Bà Di “chế ệ”!

– Trời qươi, cái quần mày bận “giúng” “i sì” như cái quần của tao

– Cái con Thỉ (Thủy) nó “lanh chanh” mà lại “thập thảnh” lắm chị Hai ơi. Lại có cái tật hay “tày lay” làm cái gì cũng “cả mô” bởi dậy thằng Tứn (Tuấn) đâu chịu đi hỏi nó…

Ở Qui Nhơn ai mà chẳng biết “Ông Tám Khùng” và “Bà Nhím”. Hai cái tên đó hình như đã dính liền với cuộc sống trong tỉnh. Không biết ông Tám sinh ra và có mặt trong thành phố từ lúc nào ? Lúc nhỏ tôi đã biết được ông ấy rồi. Một người đàn ông với chiếc quần tây rách rưới, đi đôi giày hả miệng, mình trần, lâu lâu mới thấy mặc một chiếc áo chemise rách, miệng sún vài cái răng, đi khất kha khất khưởng trên đường phố, nhưng chưa bao giờ tôi thấy ông say, lấy trời làm màn, lấy đất làm chiếu, tiện đâu, ngủ đó. Những lúc bị lũ con nít chọc phá hay lên cơn ông ta không bao giờ bạo động, chỉ tìm một cục đá nào gần đó, đập mạnh vào ngực tự hành hạ mình, như chỉ muốn chuốt lấy đau khổ cho riêng ông mà không muốn làm cho người khác đau đớn. Miệng chưởi :

– Cha mầy Xe, mẹ mầy Dầy !

Điều rất lạ tôi chẳng thấy ông Tám nhiễm bệnh bao giờ. Tâm tính ông rất hiền, ông hay lầm bầm những câu vô nghĩa trong miệng, không ai hiểu, ông muốn nói cái gi ? rồi cười hề hề, chỉ có vậy thôi. Những người bị bệnh tâm thần ở một xứ nghèo khổ, số phận thật hẩm hiu. Họ sống bên lề xã hội, nhân vị không còn nữa, người ta bố thí một miếng ăn để làm phước, để mong kiếp sau được hưởng cái phước đã ban, nhưng chẳng một ai thông cảm kẻ xấu số, chăm sóc bằng một tấm lòng nhân chân thật.

Bà Nhím có thể đã qua đời nhưng tên tuổi đã lưu lại trong ngôn ngữ dân Qui Nhơn. Từ năm 67 trở đi. “Nhím” thấy xuất hiện rất nhiều ở thành phố. Nhím từ Saigon ra, nhím địa phương, “nhím kín”… Nhím từ Saigon ra đến được Qui Nhơn chắc phải cả năm mới đến nơi. Thịt nhím là một món nhậu hiếm có. Nhím thường thấy trong rừng, chứ trong thành phố làm gì có nhím nhiều như chuột vậy, lại còn làm nhím, nhím kín, nhím hở nữa? Loại nhím này là nhím người. Đặc biệt chỉ ở Qui Nhơn mới có danh từ nhím này để ám chỉ những thiếu nữ hành nghề mãi dâm. Chữ đĩ nghe nó nặng nề làm sao ! Chữ nhím nghe thanh tao và kín đáo hơn. Người đi làm nhím khá đông trong thời gian này vì quân đội Mỹ và Đại Hàn đóng căn cứ ở đây. Thóc đến đâu bồ câu đến đó là vậy. Hành nghề không công khai gọi là nhím kín.

Từ đâu phát sinh ra danh từ này? Theo tôi biết, nguyên là ở đường Bạch Đằng, gần hãng bia B.G.I có một bà làm chủ chứa gái mãi dâm tên là Nhím, nên từ đó…những thiếu nữ hành nghề nằm ngang này được gọi là mấy “em nhím” hay “con nhím” tùy theo sự hâm mộ hay khinh bỉ. Nếu bà ta không mang tên Nhím tôi không biết dân ở Qui Nhơn gọi gái giang hồ là gì? Bà đã lưu danh hay lưu xú? Dù gì chăng nữa tên bà ta đã đi vào lịch sử đen thành phố.

Trước khi chính thức vào tiểu học, tôi và thằng em được mẹ tôi gởi đi học vỡ lòng trường Cô Tý lúc ấy còn ở góc đường Bạch Đằng/Phan Đình Phùng (từ Mì Trường Đề đi ra Đầm Thị Nại). Tập viết bằng ngòi viết lá tre, không được viết bằng bút chì nguyên tử vì sợ hư chữ. Mực thì mua những viên mực tím, xanh lá cây, đen hoặc xanh dương, hòa với nước để viết. Nói viết thì chẳng đúng, chỉ để “đồ” lại những chữ a, b, c đã được viết sẵn bằng bút chì. Tập đánh vần quốc ngữ. Tôi chưa từng thấy một ngôn ngữ nào trên thế giới đánh vần khó như ngôn ngữ Việt Nam: xê o co, o anh nờ on là con. Bê o bo huyền bò. Chữ con bò đơn giản chỉ có thế mà đánh vần ra đã muốn trẹo lưỡi, huống hồ phải đánh vần chữ ngoằn nghèo, khúc khuỷu? Từ đường Trần Cao Vân, trước rạp hát Cọng Hòa, mỗi ngày tụi tôi phải lết bộ đâm thẳng ra đường Bạch Đằng, rồi dọc theo Đầm Thị Nại đi theo hướng Bến xe đến trường, xa ơi là xa…cho cặp gìo nhỏ bé. Đi về cứ theo đường đến mà về. Đường Bạch Đằng có bức tường bằng đá ong cao đâu khoảng 2 thước từ bến xe kéo dài đến gần cầu Đá, để ngăn thủy triều của Đầm và củng là nơi đổ rác “bán chính thức”. Lúc nào rác nhiều qúa, không biết ai đó, đốt để rác xẹp bớt còn chỗ đổ tiếp. Trên con đường về mỗi chiều này, có cái hồ cá phi. Tôi thì mê bắt cá, nuôi cá và câu cá như những lũ bạn cùng tuổi. Mỗi ngày đi học về, tôi hay “đảo” một vòng quanh cái hồ này để nhìn những con cá phi đen tuyền hay bơi lại gần bờ hồ để kiếm chút mồi và mình lại có cơ hội bắt vài chú về nuôi. Ham vớt cá, trợt chân, cà người tôi lăn tỏm xuống hồ, may là hồ không sâu lắm, chứ không thì chết đuối rồi. Tập vở cũng bị ướt, mở ra kiểm lại thấy không còn một chữ nào trong vở, chữ nghĩa được viết bằng mực xanh hòa nước đã đi theo đàn cá bơi lượn dưới hồ mất dạng…Ngày mai chắc bị ăn đòn!

Sau lớp vở lòng, tôi nhập học trường tiểu học Mai Xuân Thưởng một trong những trừơng tiểu học trong tỉnh thời đó gồm: Mai Xuân Thưởng, Nguyễn Huệ, Nguyễn Trường Tộ (ở khu Sáu), Đào Duy Từ (khu Một), Phan Đình Phùng và ẤuTriệu dành cho con gái.

Từ lúc trường Mai Xuân Thưởng từ chợ Qui Nhơn dời về địa điểm hiện nay, sau trường đầy cả xương rồng, mồ mã. Đi học đạp gai mỗi ngày là chuyện thường. Sân trường toàn là cát, phải đổ thêm đất lên phía trên để mấy cây phượng do lũ học sinh bọn tôi trồng, chăm sóc mới có cơ hội sống sót. Trường Mai xuân thưởng có Thầy Hiệu Trưởng Trần Duy Chứng, Thầy Nguyễn Văn Đồng, thầy Vĩnh Đinh, cô Mai dạy mẩu giáo. Nhắc lại thời học tiểu học, nhớ ơi là nhớ…Hình như kỷ niệm thưở mới lớn này là giai đoạn đeo dai dẳng nhất đời người. Mỗi Thầy, Cô phụ trách một lớp. Giờ Luận văn, Đức Dục, Quan Sát, Sử, Địa, Thủ Công, Chính Tả …học độc nhất ở một Thầy hay Cô. Sau này viết tiếng Việt có đúng chính tả hay không là do sự tận tâm sửa đổi của Thầy, Cô ở bậc tiểu học. Năm năm tiểu học, bạn bè hầu như sống chung cùng một mái nhà. Mỗi ngày tám tiếng, sáu ngày mỗi tuần, cùng nhau bước chân tập tễnh vào đời, những câu ca dao tục ngữ được treo đầy mỗi lớp học: “Uống nước nhớ nguồn”, “Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời”, “Hợp quần gây sức mạnh”, “Nhiễu điều phủ lấy gía gương… “, Giấy rách phải giữ lấy lề”…như kêu gọi nhắn nhủ ghi khắc vào tâm tưởng để làm hành trang chuẩn bị cho cuộc sống tương lai. Kính thưa các Thầy, Cô chúng em vẫn cố gắng thực hiện, dù bất cứ trong một nghịch cảnh nào của cuộc sống.

Đi học, hầu hết anh em đi chân đất, hay mang đôi dép Nhật. Mỗi thứ Hai chào cờ, mặc đồng phục có đôi giày Bata đi là “sang” lắm rồi. Sau màn chào cờ với bài quốc ca: “…Này công dân ơi, đứng lên đáp lời sông núi...lũ học sinh phài hát tiếp bài suy tôn Ngô Tổng Thống: “…Ai bao năm vì sông núi quên thân mình. Cứu đất nước thề tranh đấu cho tự do…Tòan dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm!.. Biết bao nhiêu kỷ niệm về ngôi trường thân yêu này. Bạn bè từ thưở Mai Xuân Thưởng đến nay vẩn còn nhớ nhau. Ai là cựu học sinh tiểu học Mai Xuân Thưởng hẳn còn nhớ kỷ niệm quyên gạch? Mỗi một học sinh “phải tự nguyện” mang một viên gạch (nên mua, còn việc chôm chỉa không thấy nhắc đến) để đóng góp làm rào chắn quanh những cây phượng, bồn hoa và vườn rau mới trồng. Lệnh ban hành được một tuần, dân chúng Qui Nhơn đến trường khiếu nại thầy Hiệu Trưởng qúa trời. Nguyên do: Gạch để xây nhà, không cánh mà biến đâu mất hết. Thế là lệnh đóng góp gạch được thu hồi lại. Dân chúng yên tâm xây nhà tiếp!. Phía sau trường, sau những lớp học có từng lô đất phân chia cho từng lớp trồng salat, cà, hành, rau thơm…Mỗi ngày chia nhau tưới nước muốn khùng. Cà, rau được mang ra xử dụng trong mỗi lần cắm trại trường. Món đặc sắc nhất của nam nhi là canh cà với lá hành, dễ nấu, lại mau no vì húp nước canh với cơm, không lo mập.

Đến giờ Thể dục, thể thao. Mỗi lần kỷ niệm lễ Quốc Khánh 26.10 là mỗi dịp tập diễn hành cát bụi bay đầy trời trong sân trường, hàng chục cái miệng “gào” to bài Khỏe vì nước “... kiến thiết quốc gia, đoàn thanh niên ta góp tài ba...”. Năm học lớp nhất, tôi và một thằng bạn cùng lớp tên Võ Hồng Dương, được cử hát song ca trình diễn với các trường tiểu học khác với bài “Ấp chiến lược: “... Bảo vệ thôn làng nhiệm vụ toàn dân, rào làng ta quyết giữ yên nhà Nam. Đây Ấp chiến lược, cùng nhau đắp xây, giữ cho thôn làng, ngày thêm tươi mới...” Hát thì phải tập thêm điệu bộ, để diễn tả, chứ không được đứng như trời trồng, ngay đơ cán cuốc, không truyền cảm được bài đang hát. Giờ Thể Dục hai thằng được miễn tập đi diễn hành, xuống văn phòng Hiệu Trưởng tập làm đìệu dơ chân múa tay như người máy cho bài hát, và tập đánh trống diễn hành. Trường có một giọng ca nữ rất hay. Tôi mê tít thò lò! “Nàng” mang tên : Tôn Nữ Diệu T.! 11 tuổi, với bài Dư Âm (Đêm qua mơ dáng ai ôm cung đàn, dìu muôn tiếng tơ…) mang Giải Nhất về cho trường. Tôi qủa là một tên si tình tí hon. Mới 11 tuổi mà tôi đã biết “cảm” con gái người ta rồi (đồ qủi con !). Bắt được cục phấn, hay cục đá nào, tôi liền tìm cái tường hay cái gì có cái nền mềm mềm là khắc hai chữ K + T lên ngay, cạnh đó có hình trái tim, với một mũi tên xuyên qua, không hiểu để làm gì? Nhưng thấy người lớn họ làm mình cứ việc làm theo cho oai. Tình yêu ? đầu đời của tôi! Tình yêu nhi đồng! Nhiều lúc tôi tự hỏi: Hồi đó, có thể gọi là yêu hay không nhỉ? Tôi sẵn sàng bao nàng ly chè đậu đen ở nhà ông Cai, mua nợ cũng được. Sẵn sàng chia nàng một nửa cái kẹo kéo, nếu nàng thích. Tên nào “cà rà” lại làm quen tôi sẵn sàng “bịch” nó ngay !

Sự nghiệp học hành của tôi ở bậc tiểu học thật là bi đát ! tôi thuộc hạng “cầm đèn đỏ kinh niên”. Trong lớp có 50 đứa, tháng nào đứng được hạng 40 là khá rồi, tôi hơn tới 10 cái đèn đỏ khác, về nhà khỏi bị ăn bánh canh roi.

Cuối năm lớp Nhất, thi vào Đệ Thất bị hỏng, bà cụ buộc tôi ngồi lại thêm một năm nữa hy vọng thằng con sẽ mở trí. Gia đình thần tượng của tôi dọn nhà đi đâu mất tiêu, tôi chẳng hay biết, rồi từ đó quên luôn…Mới đây, tôi được biết Diệu T. về dạy ỡ Qui Nhơn từ lâu, nhưng nay đã qua đời vì một bệnh ung thư khó trị. Chào vĩnh biệt thần tượng tiểu học của tôi nhé !

Tôi lại trợt thi vào Đệ thất Cường Để lần thứ hai ! Tự an ủi :

– Ông Franklin lúc nhỏ cũng cầm đèn đỏ như tôi, sau thành bác học, phát minh ra được cái trụ thôi lôi to tổ tướng, sét đánh không suy suyển cái nhà.

Bà cụ tôi hy vọng trong tương lai, tôi cũng giống như thế, hay ít nhất cũng đậu được vào Đệ thất, đỡ tốn học phí nhà trường. Nhưng…than ôi!. Tôi cũng cố gắng lắm chứ, cửu chương: năm lần một là năm, năm lần bảy, ba mươi lăm, đến chín lần chín rồi đọc ngược trở lại, tôi nhuyễn như cháo. Nhưng đến giờ toán, học động tử di chuyển một chiều, hai chiều, gặp nhau ở một điểm nào đó, tính thời gian bao lâu? tôi chỉ thấy lờ mờ…lại còn bị đày ngồi tuốt sau cùng lớp, vì thuộc hạng “lớn con” phải ngồi đàng sau, nên dốt tịt ! Thầy Dần, Nguyễn Dần mở lớp luyện thi tiểu học cho những “tài năng dốt toán”, tôi cũng tham dự, nhưng chẳng ăn thua gì. Bà cụ tôi bèn gởi tôi vào học La San, để mấy ông frère trị “tội dốt”, Chẳng khá mấy, tôi chỉ tiến hơn một chút, trở thành đèn vàng. Năm tôi lên Đệ Lục, gia đình tôi đổi đi Đà Nẵng, tôi vào học trường tư thục Phan Thanh Giản, các Thầy khám phá ra: tôi bị cận nặng, mới mang kính mà đã ba độ (dioptrie). Từ ngày thấy được ánh sáng cuộc đời, tôi “mở trí” nhanh chóng, trở thành đèn xanh, sau chín tháng lưu vong ở Đà Nẵng,về lại Qui Nhơn, tôi vào Đệ Lục 3 trường Bồ Đề học tiếp, thấy mình học khá, bèn xách cặp đi học anh Hai Ngô ở khu Hai, để học băng Đệ Ngũ, vào Đệ Tứ luyện thi Trung Học Đệ Nhất Cấp bù bị mất một năm ở lớp Nhất. Anh Hai Ngô, một trong những người góp phần đào tạo không nhỏ trong nghành giáo dục tuổi trẻ ở Qui Nhơn. Thời gian học ở anh Hai Ngô, tôi có được một trình độ học rất vững vàng. Kỷ luật như ở quân trường: Sáng 5 giờ đã phải thức dậy đi học, chiều 6 giờ mới về đến nhà, tối phải làm bài thêm. Con gái, con trai gì khỏi cần biết, làm bài không xong, anh Hai Ngô bắt từng nàng hay từng chàng nằm lên bàn, thưởng vài roi dằn mặt. Thật tội nghiệp mấy em, cứ leo lên, leo xuống cái bàn như có gai. Tôi sôi máu anh hùng, muốn cứu mỹ nhân, nhưng ngồi yên không dám hó hé, sợ anh hùng cũng bị nạn lây. Nghe tin anh Hai Ngô, đã chết từ lâu, với những dòng chữ này, tôi thành thật cảm tạ công anh, đã hướng dẫn chúng tôi trở thành những học sinh ưu tú sau này vào Cường Để. Tuy lối giáo dục hơi có thiếu tính cách sư phạm, nhưng rất thành công.

Trung học Cường để như phái Thiếu Lâm Tự, ngôi sao Bắc Đẩu của Qui Nhơn. Nữ TrungHhoc như phái Nga Mi (toàn con gái, nhưng không tu) duyên dáng như sao Nam Tào. Trung học Bồ Đề như Võ Đang, Nhân Thảo như Không Động, Trinh Vương như phái Cổ Mộ của Tiểu Long Nữ. La San như Thông Thiên Giáo. Tôi là đồ đệ hầu hết các phái, La San cũng học, Bồ Đề cũng thọ giáo cho đến lúc mò được vào… “Chùa” Cường Để. Tôi không là đồ đệ chính tông của phái nào cả. Tôi làm môn đệ Cái Bang Qui Nhơn, hạng một túi chứa ăm ắp tình yêu thành phố. Tôi yêu từng hàng cây, bụi cỏ mọc lèo tèo, đối với ai không ý nghĩa, nhưng đã nuôi dưỡng tuổi thơ của tôi. Tôi yêu từng con đường nhỏ, hay đi lang thang vào những đêm trăng sáng với thằng bạn “lượn” qua lại nhà em đã ngủ. Tôi yêu những ngày nắng gay gắt, những chiều mưa như trút trên thành phố nhỏ bé này. Tôi yêu những câu nói thành thật với cái giọng nói Qui Nhơn cưng cứng, không hẳn là Nẩu, chẳng phải là Bậu. Tôi yêu bạn bè và những kỷ niệm tuổi thơ và …rất nhiều nữa. Nhưng…tất cả đã theo bước thời gian đưa đẩy lùi xa tít mù vào dĩ vãng, chỉ còn loang thoáng trong ký ức mà thôi.

Bùi Đăng Khoa
(2002)

   

   Số lần đọc: 3428

6 BÌNH LUẬN

  1. Qui Nhơn Trong Ký Ức
    Anh có lối viết dí dỏm, vui nhộn đưa người đọc về lại với quá khứ!!!

    Qui Nhơn Trong Ký Ức qua những con đường góc phố, ngôi trường xưa, món ăn thân quen của tuổi thơ nghịch phá, những trò chơi trẻ con một thời, có ông Tám khùng có thằng Điểu (xin lỗi gọi theo người lớn!) và những tiếng địa phương rất ư là mộc mạc… và còn nhiều thứ nữa cứ ngỡ rằng mình lâu nay đã quên giờ đây lại nhớ rất nhiều!!!

  2. RE: Qui Nhơn Trong Ký Ức…
    Công nhận Qui nhơn trong ký ức anh sâu đậm. Khắc ghi từng con đường góc phố, từng kỷ niệm của thời ấu thơ…cả từng nhân vật đặc biệt! Như bác Tám Khùng, bà Nhím…
    Đến giờ nhờ đọc bài anh tôi mới hiểu ra cái từ “Nhím” chỉ ở QN mới có, đó là tên của 1 tú bà mà ra.
    Anh tự hỏi “Tâm hồn có già đi theo thời gian không nhỉ” theo tôi nghĩ người có thể già đi nhưng tâm hồn vẩn trẻ, vì tôi nghĩ:tuổi già tâm không già, thế là già mà không già, tuổi không già nhưng tâm già, thế là không già mà là già
    Tôi có đọc 1 bài thơ trên mạng cũng vui lắm anh thử đọc:
    60 chưa phải là già
    60 là tuổi mới qua dậy thì
    65 hết tuổi thiếu nhi
    70 là tuổi mới đi vào đời
    75 là tuổi ăn chơi
    80 là tuổi yêu người yêu hoa
    90 mới bắt đầu già.

    Bài viết rất hay rất vui! chúc sức khỏe!

  3. NguyenPhuCL SG
    Bài thơ còn thiếu một đoạn nữa, không biết NguyenPhuCL vì lý do gì mà không chịu kết thúc luôn?
    ……
    Đêm dài vẫn cứ mặn mà yêu thương
    100 có lệnh Diêm Vương
    Cứ ở trên ấy, yêu thương thỏa lòng
    Bao giờ đạn hết lên nòng
    Từ từ nằm xuống là xong cuộc đời!

    Cảm ơn lời chúc sức khỏe và lời khen…xuôi(?)Dù sao, không ai cưỡng lại được Tạo hóa cả: Tam thập nhi lập – Tứ thập nhi bất hoặc – Ngũ thập tri thiên mệnh – Lục thập nhi nhĩ thuận – Thất thập cổ lai hi. Có được Bát thập cười hi hi hay không đây? Trong một bài hát của Đức có câu: “Die Gedanken sind frei. Kein Mensch kann sie sehen…”(Tư tưởng lúc nào cũng tự do, không một ai có thể thấy nó…)Nếu không thấy được, thì mình cứ việc nghĩ tiếp…”Ai ơi! đừng chê Dượng gìa. Dượng còn gánh nổi một và trăm kim…” Thân ái!

  4. RE: Qui Nhơn Trong Ký Ức…
    Đoc bài viết của anhBUI ĐANG KHOA mà mình cứ cười mãi, cười to thành tiếng đến nổi thằng cháu nội cũng phải tò mò hỏi có gì vui mà bà nội cừơi hoài vậy , Cám ơn anh rất nhiều qua anh mình thấy mình như còn nhỏ lại ở thời cắp sách đến trường, ngây thơ hồn nhiên chỉ biết học hành vui chơi , không lo lắng điều gì, lời văn súc tích, dí dỏm , lạc quan khiến cho người đọc cảm thấy hưng phấn thêm. Chúc ANH thật khỏe , vui ,anh nhé.

  5. RE: Qui Nhơn Trong Ký Ức…
    Gởi anh Khoa tấm hình của chị T.N.D.T, một kỉ niệm về tình yêu đơn phương thời nhi đồng ấu của anh.
    [img]http://cuongde.org/components/com_joomgallery/img_pictures//01_album_ring_ca_cc_bn_3237/khng_xun_hin_7941/bn_b_8306/_20100913_1983251947.jpg[/img]
    Anh Sanh, ông nhà của chị T.N.D.T có nhờ nhắn lời cám ơn anh về bài viết “Qui Nhơn Trong Ký Ức…”

    KXH

  6. RE: Qui Nhơn Trong Ký Ức…
    Xin cảm ơn bạn KXHiền đã cho tôi xem lại hình người bạn “thần tượng” thời tiểu học Mai xuân Thưởng. “Ông bạn gìa” Ng.Ngoc Tân của tôi(ngày xưa là hàng xóm của DT) đã có gửi hình cho tôi xem hình gia đình của bạn Sanh và hai cháu, chúc mừng bạn Sanh có cháu gái Ái Nhi rất xinh và cháu Gia Minh rất “kẻng trai”. Tôi rất vui về lời cảm ơn của bạn Sanh, cảm ơn bạn Sanh đã thích đọc bài viết “QN trong ký ức” này. Những người bạn ngày xưa đã xa chúng ta nhưng có người nhắc lại, để những tên tuổi này vẫn sống mãi trong lòng những người bạn cũ. Thân gửi lời chào thân ái đến bạn và bạn Phạm Ngọc Sanh. BDK

BÌNH LUẬN

Vui lòng viết bình luận của bạn
Vui lòng điền tên của bạn ở đây

Bài Cùng Tác Giả