Trang sinh hoạt của Cựu Giáo Sư và Học Sinh trường Trung Học Cường Đễ Qui Nhơn

Trang NhàĐoản VănNguyễn Quang QuânXuân Diệu sống với ca dao, dân ca Bình Định

Xuân Diệu sống với ca dao, dân ca Bình Định

Chúng ta thường biết đến Xuân Diệu – nhà thơ, chứ ít ai nói đến Xuân Diệu – nhà sưu tầm ca dao. Ông có được hai tập sưu tầm ca dao đã được đưa ra giới thiệu. Như nhà thơ đã tâm sự: “Từ năm 1930, nét chữ viết còn chưa có cá tính, bút sắt chấm mực tím, tôi đã yêu quí ca dao mà tìm chép thành một quyển vở đặc biệt, ban đầu xen lẫn ca dao Nam, Bắc, nhưng dần dần do hoàn cảnh, môi trường mình ở, mà về sau chép toàn ca dao miền Nam Trung bộ, cụ thể hơn nữa: ca dao nghe ở Bình Định”. Trong những tập tiểu luận, phê bình của Xuân Diệu, bên cạnh những bài phê bình về thơ, còn có những bài nghiên cứu về ca dao rất xuất sắc. Xuân Diệu đã viết “Sống với ca dao, dân ca Miền Nam Trung bộ“. Đó là tấm lòng của nhà thơ hướng về Miền Nam thân yêu, nơi đó có Tuy Phước, Bình Định – quê mẹ của ông.
  

Trước hết nói về thái độ sống. Đó là sự gắn bó khắng khít, máu thịt. Xuân Diệu nói: ” Ca dao là một thứ máu của Tổ quốc“, “Ca dao làm thành không khí ta thở“, “ca dao đã thành một cái điệu của tâm hồn cảnh vật và tâm hồn người“. Và với ca dao Bình Định thì “ca dao ở đó đã đẻ ra lâu lắm trước tôi, tôi đẻ ra ở đó thì thở ca dao cùng với bầu sữa mẹ“. Chao ôi!Cái tình cảm gắn bó đó không dễ gì có được. Nó chỉ có ở những con người gắn bó máu thịt với quê hương, đất nước. Nó có ở những tâm hồn nhạy cảm biết yêu mến xót xa từng gốc lúa, bờ tre, từng nét mặt quê hương với con người, làng xóm.

Tuổi thơ của Xuân Diệu gắn liền với vùng đất Gò Bồi có gió nồm, bụi tre và những mái tranh xóm nhỏ “bồi hồi sóng nước bâng khuâng gió – đầm đậm cá chuồn thơm thơm khoai”
Khi má anh sinh ra
Anh đã thở hơi nước mắm ngon của vạn Gò Bồi
…………………………………………..
Nghe bài chòi cắc cụp cắc ở chợ tết xã Văn Quang
Ôm cái cột đình làng làng Luật Bình rồng lượn

( Đêm ngủ ở Tuy Phước – Xuân Diệu)

Ngay từ tuổi thơ đó, Xuân Diệu đã cảm biết cái buồn hắt hiu của câu ca “tiếng ai than khóc nỉ non, phải vợ chú lính trèo hòn Cù Mông”, cái hắt hiu, nhớ thương của câu hát mẹ ru “Hời hời! Một mai ai chớ bỏ ai, Chỉ thêu nên gấm, sắt mài nên kim”.

Những câu hát như:

Trò Ba đi học đường xa
Cơm canh ai nấu, cửa nhà ai coi

Xùng xình áo lụa mới may
Hôm qua mới bận, bữa nay mất rồi

đã trở thành kỷ niệm tuổi thơ, thành những mảnh tâm hồn sâu xa, tinh tế gắn chặt với quê hương Tuy Phước, Bình Định, với xóm làng Tùng Giản, Kim Trì….

Trong cái tuổi về già, Xuân Diệu vẫn nhớ như in những câu hát của bà vú già giữ em mình, hồi mới tuổi mười lăm. Bà cụ miệng cười móm mém và cứ mở miệng ra là có những câu hát rất hay:

Vô duyên dầu bận áo sa
Áo ra đằng áo, người ra đằng người
Có duyên dầu bận áo tơi
Dầu đội nón cời, duyên vẫn hoàn duyên

Một cái trăng, năm bảy cái sao
Đường đi tới đỉnh, tới trào
Bữa nay gặp mặt, lẽ nào: nhớ? quên?

Xuân Diệu nhớ mãi hình ảnh ông “Tốc xi măng” thở còn đi học ở Qui Nhơn. Ông nửa khờ nửa dại, đi lang thang như người điên, nhưng có những bài hát huê tình rất hay:

Xa xôi chưa kịp nói năng
Từ qua đến bậu như trăng xế chiều
Thân em như thước lụa điều
Phất phơ giữa chợ, nhiều điều đáng thương
Dốc lòng trồng cửu lý hương
Ba năm hai lá, người thương giã đầu…

Bài dân ca khá dài, tuy Xuân Diệu không nhớ được hết để chép lại trọn vẹn, nhưng vẫn cảm nhận chiều sâu của nó: Đây là một khúc hát bi thương của một thứ tình yêu uất ức, một sự tủi cực cho thân phận.

Mỗi câu ca dao, dân ca Bình Định ghi chép trong sổ tay của Xuân Diệu đều gắn liền với kỷ niệm của tuổi thơ, về quê mẹ với hình ảnh làng xóm, dòng sông, con đò và niềm vui, nỗi buồn của những con người cụ thể. Hình ảnh quê mẹ không bao giờ phai mờ trong ký ức của nhà thơ, dù thời gian qua đi nửa đời người, dù bị chia cắt bằng một khoảng không gian rộng lớn. Nó trở thành nỗi niềm ray rứt khôn nguôi:

Ôi bao giờ, bao giờ
Ta tắm vào da thịt
Qui Nhơn về ngụp biển
Muối đọng ở vành tai

(Nhớ quê Nam – Xuân Diệu)

Ký ức của Xuân Diệu vẫn vang vọng tiếng chim cu với nỗi mong ngóng xuân về trong ca dao quê hương:

Cu kêu ba tiếng chim kêu
Cho mau đến tết dựng nêu ăn chè

Ngày tết với tục hô bài chòi ở chợ làng Văn Quang. Anh em Xuân Diệu dắt nhau chen vào khu chợ nhỏ, nhìn anh hô bài chòi hiền lành trên cái chòi tre cao leo kheo hát hết bài này sang bài khác, anh em Xuân Diệu nhớ lấy, về nhà bắt chước hát theo:

Nhất là vợ dại trong nhà
Thứ hai nhà dột, thứ ba nợ đòi

Dú có biết cái khổ của người có “vợ dại” là thế nào đâu!

Xuân Diệu nhớ mãi những đêm nằm trên đò đi từ Gò Bồi xuống Qui Nhơn. Dòng sông nước chảy êm xuôi, sóng vỗ tí tách dưới mạn thuyền và tiếng gió nhẹ đi qua làm cánh buồm lay động. Tất cả những âm thanh dịu ngọt ấy hoà nhịp với những câu hát dài hơi, tha thiết của bác lái đò, làm cho cảnh trời nước như rộng hơn, con sông dài hơn và lòng người ấm lại.

Xuân Diệu giúp ta nhớ lại tục hát giã gạo ở Gò Bồi. Vạn Gò Bồi từ tháng 3 đến tháng 7 tấp nập thuyền Quảng Nam vào ăn gạo. Những nhà chủ giàu lúa gạo tấp nập xay giã năm cối mười chày hàng đêm. Trai gái cùng nhau hát hò cho vui, để quên đi mệt nhọc. Gò Bồi khi đó có khoảng ba bốn chục đàn ông, đàn bà biết hát. Đêm đêm họ vừa hát, vừa giã gạo đến gà gáy. Có khi hết gạo rồi, mà hát đang mê, bèn bỏ trấu vào giã. Người hát mê, người nghe cũng mê. Những câu hát của chú Bốn Nhọn, của các chị ở Kim Trì, Gò Bồi đã chất chứa cả hình ảnh quê hương với sản vật địa phương, với tục lệ, với niềm vui nỗi khổ của người dân Tuy Phước, Bình Định thời phong kiến.

Xuân Diệu học ca dao từ những chị ở, bà vú, những bà bán hàng, những người thân của mình: chị Bốn, chị Tám, mợ Giáo… và đã cảm thông sâu sắc những cuộc đời khổ đau với những tâm sự đắng cay, chua xót, được thốt ra với giọng trữ tình đặc biệt của người đọc, người ca.

Anh cầm cây viết, anh dứt đường nhân nghĩa
Em cầm cây kim, em thêu chữ ân tình

Chép câu này, Xuân Diệu oán hận sự bực tức của cây bút, cảm thương nỗi cực nhọc, nhẫn nại của cây kim và phê: “Cây bút và cây kim, hai câu thơ mà nói cái kiếp người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, nói tội nghiệp và nói cao cả của họ.”

Và khi bà ngoại đọc câu này, Xuân Diệu như cảm hết sự buồn tủi, cô đơn trong cuộc đời cô gái quê, yêu mà không thành:

Sớm mai em xách cái thỏng ra đồng
Em bắt con cua em bỏ vô thỏng
Nó kêu cái rỏng
Nó kêu cái rảnh
Nó kêu chàng ôi!
Chàng giờ an phận tốt đôi
Em đây lỡ lứa mồ côi một mình.

Trọ học ở Qui Nhơn, nghe chị ở nhà bên hát ru em, Xuân Diệu hỏi ra nỗi khổ của chị: Yêu một anh thợ may mà không được, bị bà mẹ nuôi mắng nhiếc đánh đập luôn:

Tức đà quá tức
Dang tay đấm ngực
Thở chẳng ra hơi!
Sống dương gian không gặp, để chờ nơi suối vàng!

Xuân Diệu học ca dao Tuy Phước, Bình Định từ má mình. Do hoàn cảnh gia đình, trước kia má con Xuân Diệu không được ở gần nhau. Năm năm sau ngày má tập kết ra Bắc (1959),Xuân Diệu mới có dịp ngồi nói chuyện ca dao quê hương với má. Qua lời kể của Xuân Diệu về chuyện này, chúng ta sung sướng biết được nhiều câu ca dao hay của Tuy Phước, Bình Định , mà một số câu do chính má Xuân Diệu đặt ra. Do tính truyền miệng và tính dị bản, thật khó xác định ca dao, dân ca của một vùng đất và tác giả của nó. Ghi chép của Xuân Diệu là những tư liệu quí cho các nhà nghiên cứu, sưu tầm ca dao vùng đất Tuy Phước, Bình Định , nhất là cho người dân Tuy Phước với truyền thống yêu thích văn nghệ của chúng ta.

Trồng trầu thì phải khai mương
Làm trai hai vợ phải thương cho đồng

Đó là yêu cầu của bao người đàn bà phải chịu thân phận lấy lẻ ngày trước và cũng là mong ước của bà má Xuân Diệu. Bà chỉ là vợ bé của một ông đồ xứ Nghệ đã có vợ ngoài Bắc.

Xuân Diệu kể lại rằng: “Trước khi lấy thầy tôi và đẻ tôi, má đã có một đời chồng xấu số, ưng ông Tám ở trên huyện An Nhơn. Mẹ chồng là bà Bá Kiểng, nhà giàu. Má phải xay lúa giã gạo luôn luôn. Bà Bá Kiểng bắt con trai đi lên trường ở thành Bình Định học chữ Nho, xa má luôn. Má bắt cua gặp con rắn nước ở trong hang chui ra như đem tin cho mình. Má nghĩ, thà rầy la mình, chứ sao cứ rầy la chồng mình, má đặt một câu:

Con rắn có chân con rắn biết
Đá ngọc ẩn thì đá hay
Tội thì thiếp chịu, vạ lây tới chàng

Một mình má ở nhà làm ruộng, bà Tú ở Thanh Mai hỏi tại sao má buồn. Má đặt một câu, nhân thấy bụi mía đứng dưới trời mưa:

Lan Huệ sầu ai lan huệ héo
Cúc sầu ai cúc tả hưu bình phong
Bụi mía thương ai, nước mắt ròng ròng
Em thấy anh nhỏ nhẹ, đem lòng nhớ thương

Sau khi tái giá với ông đồ Nghệ, một lần thấy chồng đau bụng, bà lấy gừng nướng, cho uống khỏi ngay. Bà đã ghi lại việc này qua một câu ca dao có thêm thắt chút ít theo nhu cầu mỹ lệ hoá, để cho nó hay hơn:

Anh ngồi trong bếp lửa đau cái bụng
Em ngồi ngoài cửa nát nửa lá gan
Biết thuốc chi mà chữa bệnh chàng
Lấy trầm hương cho uống, sao chàng vội quên?

Bà má – tác giả những câu ca dao của vùng đất Gò Bồi ấy đã đẻ ra một người con ưu tú, sau này trở thành một nhà lớn của đất nước chúng ta.

Xuân Diệu đã đến với ca dao Bình Định bằng một tấm lòng yêu thương sâu nặng. Tuy Phước là quê mẹ, Qui Nhơn là tuổi thơ thời đi học, ca dao Bình Định là máu thịt của Xuân Diệu trộn với nỗi niềm vui khổ một đời của nhân dân vùng đất này. “Những ngọt bùi của quê má thân thương” đã đi theo Xuân Diệu qua các chặng đường thơ và cả trong nghiên cứu, phê bình. Nếu Xuân Diệu đã yêu má bằng nghĩa tình sâu nặng:

Má là nguồn gốc của con
Má là Vạn Gò Bồi, làng Tùng Giản
Má là sông không cạn, núi không mòn

Thì Tuy Phước – như Xuân Diệu nói – là da thịt, là linh hồn của nhà thơ: “một mảnh thịt của hồn ta – ôi Tuy Phước” và ca dao Bình Định là “cái nôi đầu tiên của văn học dân gian đã ru tôi ngủ và đánh thức tôi dậy với những thương mến bao la của quê hương thứ nhất: Quê má đẻ ra mình.”

Ca dao Bình Định là một thứ máu của quê hương và thứ máu đó đã chảy trong cơ thể của Xuân Diệu trong suốt cuộc đời 69 năm (1916-1985) và theo nhà thơ hoà vào non sông, đất nước!

Nguyễn Quang Quân

* Tư liệu dùng cho bài viết này chủ yếu lấy từ biên khảo “Sống với ca dao, dân ca Miền Nam Trung bộ” của Xuân Diệu

   

   Số lần đọc: 9908

BÌNH LUẬN

Vui lòng viết bình luận của bạn
Vui lòng điền tên của bạn ở đây

Bài Cùng Tác Giả